VỀ NGHIEN CỨU
TÂM LINH XƯA NAY
TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
Thạc sỹ Vũ Đức Huynh
Loài người xuất hiện trên Trái đất
đồng thời cũng bộc lộ những tâm tưởng mang bản chất mà sau này được gọi là tâm
linh. Đó là con người đã biết chắp tay hướng lên Trời cao mỗi khi gặp những hiện
tượng thiên nhiên đe dọa như:
sấm sét, mưa bão, lụt lội v.v…và khi có đồng loại qua đời, con người đã biết
mai tang với “nghi lễ” (đơn sơ) cùng các đồ tùy táng mà họ có v.v…Điều đó, thể hiện ý niệm
tâm linh mà con người nguyên thủy đã vốn có trong tâm thức (những di cổ tìm thấy
ở các hang động, trong những khu rừng rậm ở các nước khu vực Trung Mỹ, và Nam Mỹ
như: Braxin, Peru, Mexico, Chi lê v.v…đã cho thấy điều đó).
Những tập tục mà nhiều tộc người
hiện đang còn sống rải rác trong rừng sâu như: tộc người Mochê, colex Kyrôt
v.v…Nó đã nghiễm nhiên trở thành “tín ngưỡng” của con người.
Từ sự sợ hãi hay ước muốn, con
người đã dẫn đến một niềm tin là có sự hiện hữu của ông Trời, Mẹ Đất, của Thần
Núi, Thần Rừng, Thần Đất, Thần Suối, Thần Sông v.v…Đủ các loại Thần liên quan đến sự sinh tồn mà con người có thể bấu víu, mong được sự
che chở và là chỗ dựa tinh thần mà con người cần đến mọi lúc.
Có thể nói “tâm linh” là phần
quan trọng trong đời sống con người. Nó có xuất phát điểm từ “tín ngưỡng”. Khi
các hình thái xã hội ra đời, con người đã có nhận thức cao dần, hơn nữa được chứng
kiến nhiều hiện tượng kỳ bí, siêu nhiên, nhiều sự việc xẩy ra trong cuộc sống,
trong mối tương tác giữa con người với môi trường, với thiên nhiên buộc con người
phải suy nghĩ, phải giải đáp các câu hỏi..., trong đó một
vế lớn cần giải đáp chính là “tâm linh”. “Tâm
linh” là một phạm trù có nội hàm và ngoại diện rất rộng. Nó bao trùm nhiều lĩnh
vực như: đời sống tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục, xã hội, lễ nghi,
văn hóa tâm linh, tập quán, phong thủy, y học, khảo cổ, ứng dụng, thiên văn, mệnh
học, bốc phệ vân vân...Từ hàng
nghìn năm trước Công nguyên cho đến đương đại đã có không ít các triết nhân và
cao hơn, là các tổ chức đã, đang nghiên cứu một cách nghiêm túc, cẩn trọng để
giải đáp các vấn đề trong phạm trù “tâm linh”! Đặc biệt hơn nữa, có nhiều tổ chức
nghiên cứu về tâm linh đã được sự công nhận của nhà nước. Họ hoạt động với một
tư cách pháp nhân rõ ràng.
Để giúp nhận thức thêm việc nghiên cứu tâm linh trên thế giới và ở
Việt Nam, bài viết này sẽ trình
bày với bạn đọc hai phần sau:
Phần một: Một số khái niệm liên quan đến nhận thức nội dung.
Phần hai: Việc nghiên cứu tâm
linh trên thế giới và ở Việt Nam.
PHẦN MỘT
MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
ĐẾN NHẬN THỨC NỘI DUNG BÀI VIẾT
I.Khái niệm về tâm linh
1.1.Dẫn giải thuật từ tâm linh ở
một số ngôn ngữ
Từ khi con người nhận thức được một
vế quan trọng luôn tồn tại tâm niệm ở mỗi con người. Nó thể hiện qua nhiều hình
thức, trạng thái, hiện tượng v.v.. được quy nạp trong một thuật ngữ gọi là “tâm
linh”. Thuật từ “tâm linh” được diễn giải trong từ điển một số ngôn ngữ, ví dụ
Tiếng Anh với từ “Spirit” hay
“Spirituality” để biểu đạt cảm xúc của con người thuộc lĩnh vực tinh thần: thứ
gọi là linh hồn, ma quỷ, thánh thần, các quan niệm về tôn giáo, niềm tin và sự
siêu nhiên”…
Tiếng Pháp với từ: La
prémonition, le Prénonitisme với nghĩa sự
sùng bái, đời sống duy linh
hay chủ nghĩa Duy linh, Thuyết Duy linh, các khía cạch đạo lý, tôn giáo, linh hồn,
những việc thần bí…
Người Đức có từ “Die
Selenblichhait, Der Verstan. Với nghĩa mối quan hệ tự thân giữa con người với
các thực thể bên ngoài đời sống thực, thứ không nhìn thấy ngoài cơ thể của con
người, linh hồn, sự giao tiếp huyền ảo…”
1.2.Nội dung khái niệm tâm linh
Từ nội dung diễn giải thuật từ
tâm linh của một số ngôn ngữ đại diện qua từ điển của họ trên thế giới cho thấy
khái niệm tâm linh là một phạm trù có nội hàm và ngoại diện rộng thuộc phạm vi
duy tâm. Tâm linh là các biểu hiện nội tâm với nghĩa hẹp; đó là cảm nhận bằng
linh tính; với nghĩa rộng bao hàm các ý niệm, tâm tưởng, niềm tin, tín ngưỡng,
tôn giáo. Đó là niềm tin của con người vào một thế giới bao gồm các sự việc, hiện
tượng, các thực thể siêu thực (hữu hình và siêu hình) siêu nhiên với sự linh diệu,
linh nghiệm của thế giới ấy. Tâm linh mang tính phổ biến của nhân loại, tồn tại
khách quan và gắn liền với sự phát triển của loài người.
II. Khái niệm về linh hồn, vong hồn, hữu hình, vô hình, siêu hình.
Hiện tại việc dùng các thuật ngữ nêu trên chưa đồng nhất.
Nó có cùng bản chất, xuất xứ, song lại có cách gọi khác nhau.
2.1.Khái niệm linh hồn.
Theo khoa học tâm linh và tri thức
tâm linh chỉ ra rằng con người có cấu tạo gồm hai phần: phần xác và phần hồn (thần
hồn và thần xác). Nghĩa là người sống luôn có linh hồn – phần chủ đạo, vi thể
sinh học. Theo tri thức tâm linh đó là “con người thực” sống và chết, có cấu
trúc mạng lưới phân lớp dọc các hạt điện sinh học và mảng hai thuộc tính âm,
dương giằng kết, là “cốt” cho phần xác. Linh hồn = con người siêu hình không mất
đi mà chỉ thay đổi dạng thức trong chuyển hóa trạng thái sống sang chết và ngược
lại.
Do đó linh hồn chỉ dùng gọi cho
phần hồn – thần hồn khi con người còn sống, còn hiện diện trên cõi Trần, cõi Hồng
trần, cõi Dương thế, cõi Trần gian, cõi Trần tục, cõi Người!
2.2.Khái niệm vong hồn.
Theo một nghĩa Hán ngữ: vong là
“mất” (không phải biến mất) là suy biến (thay đổi hình thái v.v..) là suy bại.
Theo tri thức tâm linh: khi con
người tạ thế, linh hồn – phần hồn dần thoát ra khỏi thân xác – phần xác (thường
sau 72 giờ mới hoàn toàn). Sau một thời gian 49 ngày, linh hồn hoàn tất quá
trình sắp lại cấu trúc: từ cấu trúc vòng lớp sang cấu trúc tầng nấc không thay
đổi bản chất cấu tạo nên. Khi đó “linh hồn” đã được gọi là vong hồn – “con người
thực” ở dạng thức thực thể siêu hình, dạng “bóng hình” đầy đủ như khi còn sống!
Như vậy, việc dùng chữ “vong” để thay thế chữ “linh” ngầm chỉ rằng “con người thực”
đã chuyển sang một dạng thức thực thể khác sống ở cõi vong. Họ không còn phần
xác, dân gian dùng từ “vong
linh” chỉ cùng lúc hai nghĩa: người đã mất và có sự linh thiêng, linh diệu có
thể phù hộ cho người còn sống!
2.3.Khái niệm siêu hình.
Trong vũ trụ bao la có nhiều “dạng
thức thực thể” ví dụ: thực thể hữu hình (the real vicible entity), thực thể vô
hình, thực thể siêu hình, thực thể vật lý (the real physical entity), thực thể sinh học vân vân..
Thực thể siêu hình là dạng thức
thực thể của cấu tạo vi vật
lý, hay quan niệm tế vi. Nó có thể thay đổi uyển chuyển về hình dạng mà không
thay đổi bản chất hoặc các cấu tố mà do nhiều nguyên nhân như: bị tương tác bởi
các tác nhân trong môi trường, do yêu cầu nội thể của vong hồn ví dụ như “tư tưởng”,
“hý ức”, “ý định” v.v.. của vong hồn.
Vong hồn là một dạng thực thể
sinh học thực và siêu hình (the biological vicible metaphysical ẻtity formulet)
“sống” trong cõi vong (the ghost land) ở một chiều không gian khác trong vũ trụ
bao la 6 chiều. Vong hồn có hình dạng thay đổi tùy thực tế.
2.4.Khái niệm hữu hình.
Dạng thức thực thể hữu hình
(vicible entity formulet) có trong Vũ trụ bao la là toàn bộ thực thể có hình dạng
cụ thể, trong đó có con người, mà ta có thể nhận biết được bằng các giác quan
hoặc bằng các công cụ hỗ trợ. Nó có thể rất to như các hành tinh, các sao vân vân hay rất nhỏ như các vi
hạt, ngay cả một số dạng sóng
vật lý và sóng vũ trụ.
2.5.Khái niệm về vô hình.
Vô hình là một dạng thức thực thể
có trong vũ trụ bao la; con
người có thể cảm nhận được bằng một vài giác quan nhưng là một dạng thức thực thể không có một hình dạng nào
cả như: không khí v.v…Con người
có thể cảm nhận được, nhận biết được khi nó chuyển dịch thành các cơn gió, bão
v.v..
Tóm lại con người ngày càng có
tri thức cao dần tạo nên các nền văn minh ngày một siêu việt, giúp khám phá, phát hiện thêm nhiều điều
chưa biết. Song vũ trụ luôn tàng chứa các quy luật, trong đó có quy luật bí mật.
PHẦN HAI
VIỆC NGHIÊN CỨU TÂM LINH TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở
VIỆT NAM
I.Lý do dẫn đến việc nghiên cứu tâm linh
1.1.Trong thực tế cuộc sống có nhiều hiện tượng, sự việc thực
thực , hư hư làm nẩy sinh nhiều vấn đề, nhiều câu hỏi cần giải đáp. Có nhiều quan niệm, ý tưởng
trước cùng một hiện tượng khách quan v.v...đòi hỏi cần được làm sáng tỏ vừa để thỏa mãn tính tò mò vốn có của
loài người, vừa để ứng dụng, nếu có thể, nhằm phục vụ cho lợi ích của con người
và làm phong phú thêm tri thức của nhân loại.
1.2.Tâm linh và cuộc sống con người
là sự tồn tại và gắn bó hữu cơ.
Tâm linh luôn có trong tâm tưởng
của con người ngay từ khi biết nhận thức khách quan hoặc nó được truyền bá từ đời
này sang đời khác. Trên thế giới này, chỗ nào có con người chỗ đó có đời sống
tâm linh, văn hóa tâm linh…Ngay những người vô tín, họ cũng sống trong một môi
trường có tín ngưỡng, và chợt có, một lúc nào đó, một ý niệm nào đó thuộc lĩnh
vực tâm linh dù họ muốn hay không.
1.3.Nghiên cứu tâm linh đã thành
một đòi hỏi của sự muốn hiểu biết của con người.
Trong một hình thái chính trị xã
hội nào đó nếu việc nghiên cứu tâm linh là một bất lợi, thì việc nghiên cứu tâm
linh không được khuyến khích, còn hầu hết đều được nghiên cứu nghiêm túc. Việc
nghiên cứu tâm linh đã có lịch sử hàng
nghìn năm trước và sau công nguyên, từ âm thầm đến công khai, từ cá nhân đến
các hình thức tổ chức, từ tự phát đến được quản lý nhà nước công nhận và còn ứng
dụng.
II.Tổng quan việc nghiên cứu về nhiều lĩnh vực mang bản chất tâm linh
trên thế giới và ở Việt Nam.
2.1.Lich sử về việc nghiên cứu
tâm linh trên thế giới.
Trên thế giới việc nghiên cứu tâm
linh của cá nhân đã manh nha từ 5600 năm trước. Nó bắt đầu bằng những ý tưởng của
các nhà minh triết. Họ đã nghiên cứu về tính chân thực của các Thần Thánh mà
con người tôn thờ, cầu mong và lòng
tin sự linh thiêng phù trợ. Cũng theo cuốn “The Ancien Wisdom” (Những hiểu biết
cổ xưa) của Annic Besant nói về việc phủ nhận sự công bằng của Thượng đế mà những
người thiên tài xưa khi họ xem xét đến lĩnh vực niềm tin ảo diệu sức mạnh siêu
nhiên tuyệt đối mang sắc thái tâm linh của người xưa.
Vào khoảng 5000 năm T (trước Công
lịch), nền Minh Triết cổ dạy rằng: có một sự công bằng thiêng liêng cai quản thế
gian!
Mục đích của đời người là sự tịnh
tiến của linh hồn đến mức hoàn thiện. Tiếp theo là các nhà Huyền Môn đã dày công nghiên cứu về
tâm linh và con người. Họ đã viết những vấn đề đã nghiên cứu trong các tác phẩm
Huyền Môn học như những bài
giảng, không phải là tác phẩm văn học. Trong đó giảng giải: “con người gồm cả
phần nhìn thấy và phần không nhìn thấy. Đó là “tâm thức”. Tâm thức được biểu hiện qua sự liên kết, cảm ứng, phản ứng, ý niệm…
Kế tiếp lịch sử nghiên cứu sâu về
tâm linh càng phong phú. Khi ra đời các chủng tôn giáo như: Phật giáo, Cơ đốc
giáo, Thiên chúa giáo.
Các đạo gia của các đạo giáo say
sưa nghiên cứu về tâm linh. Hầu hết các giáo lý trong các kinh và luận v.v…đều
nhuốm màu tâm linh…
Đời sống của con người chứa đầy
những quy luật tâm linh chi phối. Nào là Nhân minh (trong thuyết Ngũ hành), nào
là luân hồi, nhân quả, tiến hóa, sinh diệt, chân và tạo vân vân và vân vân đều
là những lý thuyết mang bản sắc tâm linh.
Năm 511T khi trở thành “ngôi đẳng
chính giác” Đức Thích – Ca – Mâu – Ni, giáo chủ
Phật giáo đã từng nói rằng: “…Ai cho rằng Niết – Bàn là không có gì cả…kẻ
ấy lầm…” và nữa: “…Ai cho rằng nhập Niết – Bàn là thường còn, vĩnh cửu, thực có
mãi mãi…kẻ ấy cũng lầm!”. Đức Thích Ca mâu Ni rõ ràng là người đã chứng nghiệm chăng?
Qua câu nói của Đức giáo chủ Thích
Ca Mâu Ni cho thấy ở thời đó, chẳng những việc nghiên cứu tâm linh để tìm hiểu
những vấn đề thâm sâu, mà con người còn có thể chứng nghiệm! Họ còn biết hạnh
phúc ở cõi Niết Bàn khác với hạnh phúc ở cõi Trần gian. Đó là thứ “thần lạc tuyệt
đối!”
Ở thời kỳ này việc nghiên cứu chỉ mang tính cá
nhân nhưng lại phổ biến, đặc biệt ở giới Minh Triết, giới Huyền Môn và các đạo
gia. Bởi lẽ rằng với đạo Phật chỉ “một cõi Niết Bàn” thôi nhưng các đạo gia của
Hồi giáo lại gọi nơi đó là Thiên Đàng. Balamôn giáo gọi là cõi Brahma. Đạo
Thiên chúa lại gọi là Nước Trời v.v..
Tuy cách gọi khác nhau, song mọi
con đường nghiên cứu lại chỉ có một đích. Và cuối cùng, thực chất về ý nghĩa bản
chất chỉ là một. Nó cũng là mục đích tối hậu mà các tôn giáo muốn đưa con người
hướng đến.
Những khảo cổ gần đây nhất ở Châu
Âu quanh hồ Hanlatnort, các nhà khảo cổ, các nhà sinh vật học và các nhà nhân
chủng học đã tìm thấy những bộ xương
voi, xương của hươu v.v…hé lộ
cho biết rằng những người tiền sử thời kỳ đồ đá (200.000 năm) đã thông minh. Họ tạo ra những cây lao gỗ
sồi với đầu sắc cứng do tẩm thứ nhựa cây có chứa axitanic có thể xuyên thủng đầu
voi v.v…!
Thế nhưng mãi đến năm 5600 năm T,
con người mới có thể nghiên cứu để trả lời các câu hỏi về những hiện tượng tâm
linh. Điều này cho thấy phải chờ cho đến khi con người có trí tuệ đạt đến mức
có thể mới thực hiện được.
Tóm lại lịch sử nghiên cứu về tâm
linh sẽ còn tiếp diễn vì còn rất nhiều câu hỏi cần được giải thích về các hiện
tượng…tâm linh trong tự nhiên và trong đời sống.
2.2.Những vấn đề và các lĩnh vực
mang bản chất tâm linh đã được nghiên cứu.
Một số vấn đề về lĩnh vực thuộc về
tâm linh đã được nghiên cứu kế tiếp nhau suốt nhiều thế kỷ:
-Bản thể của tín ngưỡng, Cha Trời,
Mẹ Đất (cách nay 2596 năm).
-Các quy luật bí ẩn của Trời Đất.
-Bản thể con người có phần không
thấy bằng các giác quan (544 năm T).
-Trong sinh, diệt của con người có thứ vĩnh cửu:
“tâm thức” trong con người.
-Một số giáo lý của các tôn giáo
mang bản sắc tâm linh (thuyết luân hồi, quả báo là giáo lý cơ bản của Phật Giáo
và Ấn Giáo).
-“Duy linh”, quan niệm tâm linh
trừu tượng, sơ khai nhất.
-Một số luận thuyết về vũ trụ, con người qua suy nghiệm
và tư duy logic của cá nhân đưa ra những lý thuyết về “ý thức” của con người –
thứ “tâm linh khách quan độc
lập”.
-Thượng đế và ý niệm tuyệt đối.
-Lớp vật chất phi cấu trúc; năng
lượng nguyên sơ.
-Bình diện phi vật lý; bình diện
tâm thức.
-Xuất thần, thiên nhãn (quang nhãn), thiên nhĩ
(thiên thính).
-Lớp năng lượng song song, các dạng
sống khác nhau, cấu trúc.
-Bản chất của sự sống và cái chết;
luân xa (Kama).
-Thế giới vô hình, siêu hình; cơ
thể năng lượng của con người (cơ thể: ête, cảm xúc, tâm thần, tinh tú, thương
giới, nhân quả).
-Bản thể tâm linh của con người
(thân vật lý (thân xác); tâm trí, tâm thức (thần hồn – linh hồn).
-Sau cái chết của con người (quá
trình chết, cận tử, tái sinh, Niết Bàn (Atma); địa ngục, vong hồn – vong linh;
-Thiền định, con đường; chứng ngộ,
chứng kiến; thần giao cách cảm.
-Sự sống sau cái chết, hài cốt,
long huyệt.
-Giao tiếp của vong hồn – vong
linh, thần linh.
-Các nghiên cứu chung nhất mang
tính lý thuyết về tâm linh; đời sống tâm linh, văn hóa tâm linh, lễ hội tâm
linh, phong tục tâm linh, dự báo tâm linh (mệnh học, bói toán, tiên tri, linh
tính, điềm báo); du lịch tâm linh v.v..
-Các lĩnh vực ứng dụng tâm linh:
chữa bệnh không dùng thuốc mang bản chất tâm linh, dưỡng sinh tâm linh, tìm hài
cốt, vật thể, dự báo thiên tai qua các điềm báo.
2.3.Các cá nhân đã và đang nghiên cứu về
tâm linh trên thế giới và ở Việt Nam với một số lĩnh vực cụ thể.
Việc nghiên cứu về tâm linh đã bắt
đầu từ 2560 năm, hầu hết là tự phát của các cá nhân có tri thức. Đó là các nhà
minh triết ở các nước Âu, Ấn, Trung Đông và Trung Hoa được gọi là giới Minh Triết.
Những lĩnh vực mà họ quan tâm là các đấng siêu linh hiện hữu hay không hiện hữu và sự ảnh hưởng tới đời sống tâm
linh của con người? Đó là tín ngưỡng, thiên văn.
Từ 580 năm T, các nhà Huyền Môn ở
Trung Đông, Âu Châu, Ấn Độ v.v..bắt đầu tìm hiểu về “bản thể con người”. Bản chất
tâm linh đó là phần “linh hồn hư ảo”. Những nhà Huyền Môn cho rằng: linh hồn là
thứ “hư ảo” (không thấy)
nhưng còn mãi cả khi con người đã chết nghĩa là “linh hồn” bất tử.
Quan niệm và tư tưởng của các nhà
Huyền Môn (Les mysterès) đã đi sâu vào bản chất tâm linh trong nghiên cứu về “bản
thể của con người”. Đó là một bước tiến mới trong nghiên cứu tâm linh chỉ bằng
phương pháp suy nghiệm rút ra từ các hiện tượng và sự việc diễn ra trong cuộc sống
mà họ được chứng kiến.
Quan niệm và ý tưởng đó được các
hiền triết đương thời chấp nhận và kéo dài cho đến khi xuất hiện hình thức tôn
giáo. Khoảng 536 năm T những đạo sư, cư sỹ, tu sỹ, đạo gia có trí tuệ và bằng
các phương pháp tu luyện “nhập thất kiên định tịnh thần”, họ đã ngộ ra có một
cõi khác cõi trần mà họ đang sống! Đó là “cõi bóng vô
hình”.
Sau 6 năm tu đạo và 49 ngày nhập
định dưới gốc cây Tất-bát-la (bồ đề), Đức Thích – Ca – Mâu – Ni đắc đạo vào giờ
sao mai mọc, ngày 30 tháng Paosa (tháng 10 Ấn Độ) năm 514 T. Từ đó nhiều vấn đề
thuộc bản chất tâm linh đã được Đức Phật làm sáng tỏ và thuyết giảng rộng rãi. Quan điểm của Đức Phật Thích – Ca –
Mâu – Ni đã được các đồ đệ của người và đạo gia tiếp tục nghiên cứu và truyền
bá ở Ấn Độ trước tiên. Sau việc nghiên cứu về tâm linh được lưu truyền, hình
thành các phái Huyền Môn, duy thức rồi phái Brahma Vidya ở Ấn Độ sau phát triển
rộng ra khắp nơi được gọi là các nhà Thông Thiên học (Theosophyty) nổi bật về
nghiên cứu các bí ẩn của Trời, Đất là Ô. Pythagone, một hiền triết cổ Hy Lạp.
Ông đã thuyết giải các “nguyên tắc đầu tiên của Thông Thiên học” được xem là
giáo lý. Các học trò xuất sắc như: Soerate, Zenon, Aristore v.v..tiếp tục
nghiên cứu về “linh hồn” (tạo thành phái Pythagore danh tiếng thời cổ Hy Lạp
sau này). Họ tiếp tục nghiên cứu về tâm linh song mang tính cá nhân. Vì mỗi người
đi theo một ý tưởng mới, tuy đều có bản chất tâm linh hiện hữu thời đó, ví dụ
như: “tự tính”, “tâm thức”, “tâm trí vũ trụ” v.v..
Một loạt các giáo phái ra đời với
giáo chủ, các đạo sư, tu sỹ, triết gia v.v..trong các phái có tiếng như
Pythagore, Platon, Alexandra v.v.. có các cư sỹ nổi tiếng như Porphyre,
Proclus, Fambifique v.v.. ở khu vực Trung Âu, họ say sưa nghiên cứu “tâm linh
trừu tượng”, “cấu thể Trời, Đất, con người” theo quan điểm “duy linh” hay “duy
linh khách quan”. Và cũng vì thế mà cũng xẩy ra nhiều tranh cãi trong giới triết
học và toán học!
Các tôn giáo ra đời tạo nên một
trào lưu nghiên cứu về tâm linh mạnh mẽ. Bởi vì nó góp phần làm cho giáo lý của
các Đạo có sự thuyết phục và
giúp sự bành trướng của từng Đạo Giáo. Khởi đầu là Phật giáo (Buddha) từ sơ
khai Nguyên thủy đến Đại thừa rồi Tiểu thừa. Ấn giáo, Mahavia, Hồi giáo
(Mohamet) có các cá nhân
nghiên cứu nổi tiếng về tâm linh, đáng chú ý về Niết Bàn (Atma), tam giới, luân
hồi, nhân quả và các bộ kinh, ví dụ: Lang Nghiêm, Kim Cương Bát Nhã, Diệu Pháp
Liên Hoa, Viên Giác, Đại Bát Niết Bàn, Thánh Kinh,, Koran, Hoa Nghiêm v.v..
Các cá nhân nghiên cứu danh tiếng như: Thích – Ca – Mâu – Ni, Đại đức Nagasema,
Xà Lợi, Trần Huyền Trang, Whitiman, Vashubandhu, Đại sư Thái Thân, Kimura –
Taken, Đại đức Nàgàrjuna (Long Thọ), Lục tố Huệ Năng, Bồ tát Nàgasena (Nà
Tiên), bà Alexandra David Neel v.v..Nhiều
đạo sỹ của Ấn Giáo, B-la-môn giáo, Ai Cập giáo, Ki Tô giáo (Đạo Thiên Chúa), Hồi
giáo (đạo Cơ đốc vv..) đều nghiên cứu nhiều vấn đề có liên quan đến tâm linh như đã kể trên mà còn
có nhiều lĩnh vực có bản chất tâm linh như: dự báo, luân hồi, tái sinh, nhân quả,
hình tâm thức, kama – manas (tính chất – hạ trí và dục vọng) vân vân. Những
khía cạnh này đều thể hiện trong các Bộ Kinh của từng giáo phái.
Sau Công nguyên, Tôn giáo phát
triển rầm rộ như nấm mọc sau mưa rào. Đi kèm với nó, nhiều lĩnh vực có liên quan đến tâm linh cũng xuất hiện
như: mô hình tâm linh của con người, của Trời, Đất (Vũ trụ - cõi khác cõi hồng trần và Mẹ Đất), cơ thể thượng giới v.v…Những vấn đề mà các phái
hay các nhà Huyền Môn đã từng có ý niệm cách nay tới 5000 năm bây giờ đã cụ thể
thành các khái niệm như: năng lượng, thể Niết Bàn, tâm trí, bản ngã, thể tâm
lý, thể xác v.v…Nhất là lĩnh vực thiên văn, địa lý, Kamsus (Kham dư), dự đoán
(tiên tri), thuật pháp, y thuật, địa lý như: đức Mẹ Marial, bà Vangelia Pandva
Dimitrova, Juselino, Kali-Bhagavan, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Khổng Trọng Ni (Khổng Tử),
Vương Xung, Dương Hùng v.v…Những nhà thiên văn, mệnh học giả, bốc phệ, địa lý
(mang nhiều bản chất tâm linh – Lĩnh vực
“tinh tượng học” (chiêm tinh, tinh mệnh thuật) mang sắc thái tâm linh được coi
trọng nghiên cứu của các triết nhân, đạo sỹ, giáo sỹ, thuật sỹ ở Âu Châu, Trung
Đông, Á Châu, Châu Mỹ có truyền thống nghiên cứu tâm linh từ trước Công nguyên
cho đến ngày nay.
2.4.Từ những cá nhân tự
phát đã lập ra phái, tông
phái: Minh Triết, Huyền Môn,
Thông Thiên học, Đại thừa, Tiểu thừa, Đại pháp môn, Tiểu pháp môn, cao thêm là
các Hội, các tổ chức với một mạng lưới các trung tâm, câu lạc bộ. Từ chỗ nghiên
cứu nhiều lĩnh vực mang bản chất tâm linh thuần túy (các hiện tượng bí ẩn, siêu
nhiên, siêu hình v.v..) đến các lĩnh vực liên quan như: đời sống tâm linh, văn
hóa tâm linh, du lịch tâm linh.
Thiết thực hơn là ứng dụng tâm
linh như trong lĩnh vực y dược, dự báo, tìm kiếm…Nhiều khái niệm thuật ngữ mới
ra đời. Đồng thời có những kết hợp tâm linh với khoa học (quan hệ duy tâm với
duy vật). Khoa học soi sáng
thêm tâm linh v.v..
Nhiều tổ chức nghiên cứu về tâm
linh ở nhiều nước trên thế giới đã ra đời từ các thế kỷ trước cho đến nay. Ví dụ:
có thể đơn cử các tổ chức đã và đang có nghiên cứu về một số lĩnh vực mang bản
chất tâm linh từ hàng thế kỷ
đến nay như:
-Hội Thông Thiên học (Hội Thần
trí học) 1875. Người sáng lập là bà Blavatxcaia và ông H.S.Olcott, nghiên cứu
các bản thể vô hình.
-Hội nghiên cứu tâm lý Mỹ 1885, đứng
đầu là William Jeames. Cũng tại Mỹ có Hội Thông thiên học của người Việt Nam,
thành lập 1927 hiện vẫn còn hoạt động, nghiên cứu cơ thể sống, cảm xạ học.
-Hội nghiên cứu tâm lý Anh, 1882,
đứng đầu sáng lập Hội là ông
Henry Sidgwick, nghiên cứu cận tử và ứng dụng cận tâm lý.
-Hiệp hội Quốc tế nghiên cứu cận
tử, 1981, nghiên cứu và cung cấp thông tin về các hiện tượng kinh nghiệm cận tử
NDE (Near death element). Hiệp hội là một tổ chức bao gồm một mạng lưới hơn 850
thành viên trên toàn thế giới.
-Hiệp hội nghiên cứu khoa học về
ý thức 1994 là một tổ chức được thành lập từ nhiều thành viên có chức năng
nghiên cứu khoa học cùng nội dung về ý thức (ranh giới của ý thức, thần kinh học
v.v...)
-Các trường của nhiều giáo, đạo (đạo Phật, Ấn giáo, Sky,
Balamon, Hồi giáo, Tin lành giáo, Kito giáo v.v..ngoài nghiên cứu giáo lý còn đề
cập đến nhiều thuyết tâm linh như luân hồi, tái sinh, nghiệp chướng v.v..)
-Viện Nghiên cứu và Ứng dụng tiềm
năng con người Việt Nam 2012 nghiên cứu cả lý thuyết và ứng dụng tiềm năng con
người trong nhiều lĩnh vực có liên
quan đến tâm linh. Viện có một mạng lưới trung tâm, câu lạc bộ với các chức
năng riêng.
Ở các nước trên thế giới cũng
đang có các Viện, Trung tâm, Hội, Ban, các câu lạc bộ nghiên cứu, trao đổi, tìm hiểu v.v.. nhiều vấn đề
thuộc về tâm linh và ứng dụng vào cuộc sống.
Có thể kể đến:
-Viện Hàn lâm nghiên cứu về tôn
giáo và tâm linh Mỹ.
-Viện Nghiên cứu Kinh Dịch Trung
Quốc.
-Trung tâm nghiên cứu tâm linh
Anh.
-Hội Nghiên cứu tâm linh Hà Lan.
-Hội Nghiên cứu tâm linh Nhật Bản.
-Hội Nghiên cứu tâm linh
Scotland.
-Hội Nghiên cứu và phổ biến Juda
(Yoga) Ấn Độ.
Vân vân..
Có một trường đại học đầu tiên
trên thế giới thành lập ở thế kỷ thứ ba trước Công lịch và khoảng năm 344T được
xác nhận. Đó là trường Maladà
được Phật Giáo lập ra ở nước Ma-kỳ-đà nay thuộc Ấn Độ. Ở đó có nhiều đạo sư ở
nhiều nước đến tu nghiệp, nghiên cứu về đạo pháp và nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực
tâm linh. Đức Trần Huyền Trang (trong Tây Du Ký) đã từng theo học và giảng dạy
tại đây 12 năm. Sau đó ông mới mang Kinh, luận Phật giáo truyền về Trung Hoa.
Ngày nay ở Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản có các viện đào tạo và nghiên cứu ứng dụng
các giáo lý bản đạo về tâm linh.
2.5.Việc tu tập và ứng dụng tiềm
năng tâm linh.
Từ thế kỷ 19 đến nay có rất nhiều cá nhân, Hội, Trunng tâm,
Trường, Viện v.v..Ở hầu hết các nước trên thế giới có nhiên cứu ứng dụng về tâm
linh với nhiều lĩnh vực vừa phong phú về đề tài vừa đa dạng về ứng dụng thuộc bản
chất tâm linh. Những cá nhân nổi bật tu tập và ứng dụng như: bà E.P.Blavatxcaia
(Nga), H.S.Olcott, Anni Besant (Hội Thông Thiên học Mỹ); ông Arunda tuy là bác
sỹ nhưng say sưa tu luyện với Thông Thiên học; đạo sư Vishudra (Ấn Độ); đạo sỹ
Harischandra (Ấn); Ôramaksisehna, Chaner Jen (pháp sư Tây Tạng). Bà Barbara Ann
Brunnan (Mỹ); nhà ngoại cảm: Dazon Hill; Ruth Norman; Gabried Wiltex, Jack
Pursel v.v..nghiên cứu và tu luyện về truyền và nhận các sóng sinh học thông
tin với thế giới siêu hình. Pháp sư Hamud nghiên cứu và tu luyện “quang năng”
(thiên nhãn) và thâm nhập vào cõi vô hình (siêu hình). Ở thế kỷ 19 ở Việt Nam
cũng có các thầy pháp, đạo sỹ tu tập và đã chứng nghiệm sang cõi vong (được gọi
là thực hiện “đánh đồng thiếp”!).
Những đề tài được mở rộng nghiên cứu để ứng dụng, chiêm nghiệm
mang bản chất tâm linh như: chưng ngộ tâm linh, cơ thể năng lượng, sinh thể
năng lượng, gặp người âm, phương cách trong giao tiếp với thế giới siêu hình,
các khả năng ứng dụng mang sắc thái tâm linh phục vụ đời sống con người, điểm
giao hòa giữa tâm linh và
khoa học. Khảo sát việc tái sinh, hiệu ứng của hài cốt đối với người sống v.v..
Việc nhìn thấy và giao tiếp giữa con người với thế giới siêu
hình (người âm – vong hồn) đã có chứng nghiệm của nhiều người trên thế giới từ
các thế kỷ trước cho đến ngày nay. Không chỉ có pháp sư, đạo sỹ v.v…Người không
có “thiên nhãn” qua tu luyện mà đôi khi có người bình thường gặp cơ duyên cũng
“nhìn thấy” các vong hồn (the lost soult), tất nhiên không có giao tiếp. Hiện
tượng này đã có thật và đòi hỏi nghiên cứu.
Những người đã “gặp gỡ” và giao tiếp với người âm (invisible
human). Có thể kể đến bà Vanga (Bungaria); Lạt ma Tây Tạng
Triklaza; Edga Cayce và Hapkingsvill (Mỹ); Emanuel Swedehbory (Thụy Điển); Hund
El’ Sarim (Ai Cập); Vischudha (Ấn Độ); James Van Pragh (Đan Mạch – Mỹ); Vũ Thụy
Hoa (Trung Quốc), Phan Thị Bích Hằng (Việt Nam) v.v..
Nhiều vấn đề tuy đã được nghiên cứu lặp đi lặp lại từ hàng
thế kỷ trước và sau Công nguyên, song vẫn còn ít sáng tỏ và có các quan niệm đối lập. Nó khác nhau giữa
duy vật với duy tâm, giữ thực nghiệm với suy nghiệm, giữa người chứng nghiệm với
người chưa; người không thấy, mà người không “thấy” là đa phần. Giống như người
mù bẩm sinh bình thường phủ nhận các màu sắc! Nhiều hiện tượng tâm linh “không
mà có” ấy khiến cho việc nghiên cứu tâm linh thường bắt nguồn từ các đối tượng “không mà có” đó để
tìm ra lý luận xác thực.
Ngày nay việc nghiên cứu của các cá nhân, các hội, viện và
các trường tôn giáo đề cập nhiều đến các đối tượng mang bản chất tâm linh là
các thực thể sinh học thực và siêu hình (Real and Biometa physical Entyties);
song giao tiếp trong cõi siêu hình và ngoài cõi của các thực thể siêu hình với
con người; hài cốt và các tương tác với vong hồn và với con người, bản thể (cấu
trúc) của vong hồn.
Việc nghiên cứu ứng dụng tâm linh vào cuộc sống như: chữa bệnh; dự báo; tìm hài cốt;
(Việt Nam đang ứng dụng); giải đáp giới hạn của trí tuệ, thực chất các giấc mộng,
cuộc sống của vong hồn và nhiều khía cạnh liên quan đến thế giới các vong hồn (chính quyền, ngôn ngữ, sinh hoạt,
quan hệ, chủng tộc, địa giới hành chính cõi vong, phát triển của vong hồn vân
vân); bản chất và sự tương tác của long mạch, huyệt v.v..
Theo Nguyên lịch “Tam nguyên cử vận”, chúng ta đang sống ở Hạ
Nguyên (trong Đại Nguyên) từ 1984 đến
2044 là Nguyên của Phụ nữ làm chính trị, của tâm linh, sự lũng đoạn của một đạo,
là Nguyên của thiên tai, hồng thủy! Bốn hiện tượng nổi bật nhất của Hạ Nguyên
này mà chúng ta đã phần nào thấy rõ. Vì vậy mà hiện tượng tâm linh và việc
nghiên cứu về tâm linh nở rộ và được các nhà nước quan tâm, nhiều đối tượng chú
ý, ủng hộ đồng tình.
Xem xét về việc nghiên cứu về tâm linh cho thấy có tính lịch
sử lâu dài từ các thế kỷ trước Công Nguyên và sau Công Nguyên, đến nay càng thu
hút đông đảo các đạo sư, nhà khoa học và các nhà nghiên cứu tâm huyết. Và là những
công trình khoa học có giá trị lý luận, giá trị ứng dụng. Nó đã thu hút cả hai
giới khoa học duy vật và duy tâm. Bằng nhiều chứng nghiệm mà cả hai giới khoa học
đã có sự đồng thuận và thống nhất trên một số vấn đề tuy trước đây họ vẫn phản
bác lẫn nhau như: linh hồn, năng lượng sinh học, thế giới siêu hình v.v..Mặc dù
các thuật ngữ khác nhau, song bản chất chỉ là một.
Ngày nay nhiều người có khả năng đặc biệt: thiên nhãn, thiên
nhĩ, có thể giao tiếp với dạng
thực thể sinh học siêu hình nếu kết hợp được với các nhà khoa học và các nghiên cứu gia tâm đắc với lĩnh vực tâm linh, chắc rằng việc nghiên
cứu về tâm linh sẽ có những bước tiến vượt bậc cả về lý thuyết và việc ứng dụng
phục vụ lợi ích xã hội và dân chúng.