Thứ Sáu, 7 tháng 4, 2017

HOẠT ĐỘNG CỦA PHÒNG BẤM HUYỆT THẬP THỦ ĐẠO


Bài đăng trong Thông tin khoa học TIỀM NĂNG CON NGƯỜI số 1 tháng 01 năm 2016


Bùi Xuân Vịnh[1]

Lương y
Đỗ Tuấn Nam



Hoạt động bấm huyệt thập thủ đạo tại Văn phòng Viện triển khai từ tháng 6/2015 do Lương y Đỗ Tuấn Nam thực hiện ngay sau khi thành lập Chi hội thập thủ đạo của Viện, trực thuộc Hội thập thủ đạo Hà Nội. Đây là hoạt động cụ thể của Viện vì sức khoẻ cộng đồng.    
Lương y Đỗ Tuấn Nam sinh ra trong gia đình có truyền thống làm thuốc nam chữa bệnh ở thị xã Sơn Tây. Tuổi thanh niên anh cũng đi đây, đi đó trong, ngoài nước, từng làm giám đốc doanh nghiệp. Rồi anh được học Khí công Kim Cang thiền của thày Trần Kim Cang, học Thập chỉ đạo của bà Hoàng Thị Lịch qua thầy Lê Minh, học Khí công Y đạo của thày Đỗ Đức Ngọc, học điều hòa vô thức, …

 Anh say mê các phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc và đã dẹp tất cả công việc khác để làm công việc cứu người. Theo yêu cầu của Viện, anh tình nguyện ba ngày trong tuần đi xe máy từ Sơn Tây về Viện tại nhà số 9A ngõ 218 đường Lạc Long Quân, phường Bưởi, Quận Tây Hồ để phục vụ bà con. Chính vì nắm vững nhiều phương pháp nên anh kết hợp, vận dụng nhuần nhuyễn khiến hiệu quả hỗ trợ bà con có kết quả tốt. Anh cũng mời được một số chuyên gia trong lĩnh vực khác nhau cùng phối hợp để giúp bà con

     Theo sổ theo rõi bấm huyệt thập thủ đạo, sau 35 ngày (mỗi tuần 3 ngày thứ 3, 5, 7) kể từ 22/9 đến 19/12/2015 có 330 người đến nhờ hỗ trợ, trong số đó đại đa số ở độ tuổi từ  40 đến 70, phụ nữ khoảng 70%, trẻ em chỉ 5–6%. Về loại bệnh, khoảng 70% là bệnh cơ-xương-khớp, một số bị huyết áp (huyết áp cao 60%, huyết áp thấp 40%), một số cháu học sinh phổ thông bệnh về tai, mắt – cận, loạn thị; 4 người bị tai biến mạch máu não; một số bệnh nhân ho lâu ngày hoặc hen; 1 bệnh nhân ung thư tử cung; 1 bệnh nhân ngứa toàn thân; 1 bệnh nhân u mỡ ở dưới vai.

                                               Anh Nam (bên trái) tại phòng bấm huyệt
    
      Về hiệu quả chữa bệnh, theo ghi chép, người khỏi bệnh nhanh nhất là chỉ một lần bấm huyệt bình quân 30 phút, thường là 3 – 4 lần, bệnh nặng thì lâu hơn. Bệnh nhân tai biến mạch máu não phục hồi chậm, nhưng hiệu quả, bệnh nhân cảm nhận được từng ngày. Ung thư thì ức chế phát triển, u mỡ thì giảm nhỏ dần (dù không tác động trực tiếp vào u). Một cách đánh giá hiệu quả khác có lẽ qua số lượng người đến nhờ anh Nam ngày càng đông, không ít trường hợp đã phải hẹn ngày, hẹn giờ

     Những người đến Phòng Bấm huyệt Thập thủ đạo của Viện thường đã qua các cơ sở y tế, nhưng chưa khỏi rứt bệnh, hoặc mức khỏi bệnh không nhiều, thời gian khỏi bệnh không dài. Như trường hợp chị Nguyễn Thị Hải ở Minh Khai, Q.Bắc Từ Liêm không thể ngồi xuống được do thoái hóa cột sống và đốt sống cổ dù đã chữa Đông-Tây y ở khá nhiều bệnh viện kể cả bệnh viện Thể thao, bệnh viên tư Trí Đức mà vẫn không khỏi, nhưng đến Viện, được anh Nam và các anh giúp, chị dần ngồi xuống được từng ngày.  
     Điều đáng ghi nhận, mọi người đến nhờ giúp đỡ đều được hướng dẫn về nhà luyện tập khí công theo đĩa Bộ môn tặng và day bấm huyệt để tự điều trị cho mình. Ngoài ra, anh cũng chỉ dẫn dùng thêm thuốc nam gia truyền của gia đình. Mọi người đến bấm huyệt thập thủ đạo tại Văn phòng đều hài lòng vì chi phí thấp, thầy giúp đỡ nhiệt tình, tận tâm, hiệu quả. Điều này, lần nữa khẳng định Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Tiềm năng con người đã làm sống lại Thập thủ đạo của thần y Huỳnh Thị Lịch. Theo yêu cầu của nhiều người, được Viện ủng hộ, lương y Đỗ Tuấn Nam cùng các đồng nghiệp tổ chức lớp học Bấm huyệt thập thủ đạo đầu tiên tại Viện, khai mạc ngày 1/11/2015 và bế mạc ngày 17/1/2016.  Lớp học có 14 học viên, học vào các ngày chủ nhật trong tháng. Học viên của lớp được thực tập trong tất cả các ngày Phòng Bấm huyệt làm việc. Hy vọng lớp học viên đầu tiên của anh Nam tốt nghiệp sẽ bổ sung thêm đội ngũ chữa bệnh bằng bấm huyệt thập thủ đạo trong cộng đồng. Đó cũng là ước nguyện của chính anh Nam.

Anh Nam (bên phải) giảng bài tại lớp học Bấm huyệt thập thủ đạo

     Cũng như nhiều bộ phận khác trong Viện, nhóm chữa bệnh của anh Nam cũng đã đi hoạt động từ thiện ở các địa phương: chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, người khó khăn ở huyện Như Quỳnh, Hưng Yên (2 ngày), ở quận Bắc Từ Liêm (1 ngày), ở bệnh viện Phúc Lâm, Văn Giang, Hưng Yên (1 ngày).

     Hiệu quả hoạt động của Lương y Đỗ Tuấn Nam tại Văn phòng Viện minh chứng điều: liệu pháp bấm huyệt thập thủ đạo có nhiều triển vọng phát triển vì sức khỏe cộng đồng và hướng hoạt động này của Viện là đúng đắn. 


[1]Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin – Dữ liệu Viện Nghiên cứu và Ứng dụng tiềm năng con người

Thứ Năm, 6 tháng 4, 2017

ỨNG DỤNG KHẢ NĂNG ĐẶC BIỆT ĐỂ TƯ VẤN TÂM LINH VÀ HÓA GIẢI MỘT SÓ VƯỚNG MẮC TÂM LINH


Bài đăng trong Kỷ yếu Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ nhất về "Nghiên cứu và ứng dụng khả năng đặc biệt của con người"

            ỨNG DỤNG KHẢ NĂNG ĐẶC BIỆT ĐỂ TƯ VẤN TÂM LINH
                 VÀ HÓA GIẢI MỘT SÓ VƯỚNG MẮC TÂM LINH
                                                                  Bùi Tiến Quý[1]
Bài viết gồm ba phần nhỏ:
1.Vong hồn trong Thế Giới Vô Hình tương tác với Thế Giới Hữu Hình.
2.Một số vướng mắc tâm linh thường gặp trong đời sống.
3.Tư vấn tâm linh và hóa giải một số vướng mắc tâm linh.
                                                     *****
1.     Vong hồn trong Thế giới Vô hình tương tác với Thế giới Hữu hình
Nhiều tôn giáo và nhiều nhà nghiên cứu cho rằng mọi sinh vật đều có hồn (còn gọi là phần hồn, linh hồn, thần hồn) nhưng hồn của loài người là cao cấp nhất, tiến hóa nhất. Hồn khoác tạm thời một vỏ bọc vật chất dễ bị tiêu hủy là thể xác, khi cái chết đến sẽ phá bỏ vỏ bọc này, khi đó “hồn” thường gọi là vong hồn, hay vong. Vong sẽ tồn tại và tiếp tục sống cuộc sống mới trong Thế Giới Vô Hình. “ Tôi cho rằng, đến nay không còn là thời gian tranh luận có vong hay không có vong mà rõ ràng đã chuyển sang giai đoạn nghiên cứu về: Các hình thái biểu hiện của vong và tính linh nghiệm biểu hiện của vong; những thông tin tàng chứa trong vong và khả năng cung cấp thông tin của vong…”[2]
Khi trở lại với Thế Giới Vô Hình, vong dường như sẽ gặp lại hầu hết vong linh gia tiên tiền tổ và vong linh của những người bạn thân thiết từng ở thế gian.
Các vong hồn có mặt khắp mọi nơi trong không gian và tất nhiên ở ngay xung quanh chúng ta. Chúng ta làm việc thiện hay việc ác; việc quang minh hay việc mờ ám, thật thà hay gian trá thì các vong hồn đều biết cả. Con người có thể dấu nhau, lừa nhau nhưng con người không dấu được, không lừa được các vong hồn. Không chỉ như vậy mà mỗi chúng ta sống như thế nào thì các đáng siêu linh ở một cảnh giới rất cao, rất xa cũng biết hết. Do vậy, chúng ta gieo nhân nào chúng ta sẽ nhận quả đó.
Các vong hồn trong Thế Giới Vô Hình không chỉ tương tác với các vong hồn trong Thế Giới Vô Hình mà thường xuyên tích cực tương tác trong Thế Giới Hữu Hình. Đó là các hiện tượng chúng ta thường gặp trong đời sống:
-        Duyên tiền kiếp cản trở duyên trần gian;
-        Vong theo quấy rối;
-        Vong nhập, ma làm;
-        Vong gia tiên báo mộng cho con cháu;
-        Những “điểm đen” trên đường giao thông, nơi ấy thường xuyên xảy ra tai nạn chết người;
-        Những hồ nước hoặc những đoạn sông có nhiều người chết đuối nước mang tính định kỳ;
-        Những ngôi nhà ma không ai dám ở;
-        Những người bị dựng giường, mông du khi ngủ;
v.v…
Tuy nhiên, những vong linh gia tiên tiền tổ luôn yêu thương các con các cháu, phù hộ độ trì cho con cháu theo khả năng của mình. Các vong linh gia tiên luôn khuyến khích con cháu hướng thiện, làm việc tốt, đoàn kết trong dòng tộc, giữ gìn danh tiếng cho dòng tộc. Gia tiên không hại con cháu.
Các vong linh liệt sĩ luôn tự hào về sự hy sinh cao cả của mình vì lợi ích dân tộc. Tình đồng đội rất sâu đậm trong các vong linh liệt sĩ. Trong một số trường hợp họ ngậm ngùi vì bị lãng quên hoặc do chăm sóc chưa chu đáo. Cũng có một số trường hợp họ buồn lòng vì những người thân của họ sống với nhau chưa tốt, mất đoàn kết, cắn xé lẫn nhau vì nhà đất và các tài sản khác gia tiên để lại. Họ là những vong linh rất linh thiêng do họ đã dám hy sinh vì nghĩa lớn, vì hạnh phúc dân tộc. Vong linh liệt sĩ nếu được triệu về thì không bao giờ nói năng thô tục, lỗ mãng. Đây là một đặc tính để chúng ta phân biệt vong linh liệt sĩ với các vong lạ nhưng lại giả danh vong linh liệt sĩ.
Các vong hồn bé đỏ do bị sẩy thai thường theo bố mẹ. “Chúng ít ham muốn, dục vọng, nên thảnh thơi tự tại hơn. Lúc đầu chúng quanh quẩn, nô đùa quanh cha mẹ và không ý thức được về sự chết của mình. Chúng tái sinh rất mau lẹ và thường hay trở lại gia đình cũ vì các nhân duyên từ trước.”[3] Nhưng trong trường hợp phá thai thì khác. Trong cuốn “Hành trình về Phương Đông”, Blair T. Spalding viết: “ Đứa bé không hiểu tại sao mẹ nó lại ghét nó và làm hại nó như thế ? Nó quanh quẩn gần đó một cách đáng thương và tìm cách hỏi mẹ nhưng dĩ nhiên là không tìm được câu trả lời.”[4] Chúng bị đói khát vì không ai trong nhà biết có sự hiện diện của chúng. Đôi khi chúng trêu trọc anh chị em ruột hoặc bố mẹ. Chúng chờ tái kiếp đầu thai hoặc các vong khác dẫn dắt đi nơi khác. Nhưng trong lúc chờ đợi, các vong hồn bé đỏ cũng có nhu cầu như những đứa bé đang sống trên trần gian.Nếu có điều kiện, trong không gian và thời gian nào đó, bố mẹ hữu duyên, chúng sẽ nhập vào một người nào đó để nói những tâm sự của chúng, những ấm ức và những nguyện vọng của chúng.
Các vong hồn nói riêng, các thực thể của Thế Giới Vô Hình nói chung đã và đang tồn tại đan xen với chúng ta trong Thế Giới Hữu Hình, họ âm thầm lắng nghe, quan sát, theo dõi chúng ta, giúp đỡ chúng ta. Nhiều việc tưởng chừng chúng ta không làm được, nhưng chúng ta đã làm thành công, thậm chí đạt được kết quả ngoài mong muốn. Chúng ta thường nói sự thành công đó là nhờ “may mắn”!? Thực chất nguồn gốc của sự “may mắn” đó là nhờ sự yểm trợ không lời của thực thể nào đó trong Thế Giới Vô Hình. Những người có niềm tin tôn giáo, niềm tin vào sức mạnh của các thực thể trong Thế Giới Vô Hình thường cầu xin các đấng tối linh gia hộ độ trì cho mình trước khi tiến hành những việc khó, việc trọng đại. Nhiều nhà du hành Vũ Trụ Mỹ có niềm tin tôn giáo trước khi bước vào con tàu Vũ Trụ để chinh phục không gian bao la, khám phá các hành tinh xa xôi đã thành tâm cầu nguyện. Phần lớn những người theo Đạo Phật trước khi khởi công làm nhà mới hoặc sang cát cho người thân là những việc trọng đại, cũng thành tâm cầu xin sự thuận lợi. Trong tâm thức những người có tín ngưỡng luôn kính trọng các đấng siêu linh, các vong linh của gia tiên tiền tổ, các vong linh của những người đã hy sinh vì tổ quốc. Họ thể hiện sự kính trọng này bằng sự trang nghiêm, thành kính khi hành lễ, khi cầu nguyện. Đồng thời họ rất thương cảm với các cô hồn, các vong hồn bé đỏ bị lãng quên, không nơi nương tựa. Bằng những lễ cầu siêu, những lời nói chân thành, những việc làm tâm đức cụ thể của họ đã thể hiện sự thương cảm đó. Các đấng siêu linh, các vong linh, các cô hồn, các vong bé đỏ nhận biết đầy đủ những việc chúng ta làm. Họ có nhận và có trả. Họ được tôn trọng, được giúp đỡ là họ trả ơn. Họ ứng xử chu đáo như những người thiện tâm trong Cõi Trần.
Các thực thể trong Thế Giới Vô Hình không phải họ chỉ biết chúng ta nói gì, làm gì mà còn biết cả chúng ta nghĩ gì ! Khi chúng ta nghĩ, sóng từ não phát ra, họ cảm nhận được nội dung ý nghĩ của chúng ta và họ biết đó là ý nghĩ lành mạnh, trong sáng hay ý nghĩ xấu xa, đen tối. Nên một số người mới có ý nghĩ xấu xa, đen tối trong đầu liền bị tai họa. Nguyên nhân là một số siêu linh nhận biết ý nghĩ xấu xa đó đã không để kẻ ấy hành động nên đã giáng họa như sự trừng phạt, vừa để ngăn chặn việc xấu, vừa để thức tâm kẻ xấu. Cố GS. Đoàn Xuân Mượu đã viết trong cuốn “ Khoa học và vấn đề tâm linh”: “Để giải thích nhiều hiện tượng, chúng ta phải xuất phát từ lý thuyết mới, ở đó chúng ta không phủ định vật chất mà chúng ta lý giải chúng dưới dạng khác. Trên thế giới, các nước phát triển nhiều năm nay đã nghiên cứu rất mạnh mẽ về thế giới tâm linh. Họ cũng dùng vật lý lượng tử và giải thích cấu tạo cơ thể không như cũ. Bằng cách này, họ giải thích được các khả năng đặc biệt của con người. Ví dụ, con người mất đi thì vẫn tồn tại sóng. Nếu là người thường, chúng ta không bắt được sóng này nhưng nếu là nhà ngoại cảm thì tần số sóng của họ phát ra trùng nhau nên họ có thể giao tiếp được với thế giới âm.”[5]
2. Một số vướng mắc tâm linh thường gặp trong đời sống
-Trong đời sống, chúng ta từng nghe nói “đất nơi này lành”, hay “đất nơi kia dữ”. Có công trình xây dựng tai nạn lao động chết người xảy ra liên tiếp mặc dù công tác bảo đảm an toàn lao đông đã được quán triệt. Có tòa nhà đầu tư xây dựng rất nhiều tiền, làm xong không ai dám ở, bỏ thành hoang ốc. Có ngôi nhà, chủ nhà gắng gượng ở vì không có lựa chọn nào khác, nhưng nhiều thành viên gia đình ốm đau, tai họa vô cớ, đời sống kinh tế khánh kiệt. Có ngôi nhà cho thuê nhưng những người thuê chưa sử dụng hết thời gian hợp đồng đã vội vã trả lại chủ nhà vì luôn có các biểu hiện tà ma gây nên sợ hãi. Những hiện tượng này có nguyên nhân vướng mắc về tâm linh, trong đất có thể có nhiều âm khí hoặc vong dữ, cần được những người có khả năng đặc biệt phát hiện, tư vấn về tâm linh. Sau đó hóa giải vướng mắc tâm linh.
- Có dự án mở đường giao thông, làm đến chỗ đất có nhiều tà khí, xe chết máy. Thay xe mới, máy xe vẫn chết. Nhiều lần thay xe đủ loại, nổ máy rồi, máy lại sặc lên rồi tắt ngấm. Thậm chí xe ủi đất loại xích sắt, tiến được một đoạn thì  bị đứt xích. Hiện tượng này có thể trong đất có vong dữ hoặc nơi đây vốn là nơi cư ngụ của các vị thần, cần kiểm tra cụ thể, tư vấn và hóa giải.
- Có công ty tư nhân sản xuất bao bì, máy đang chạy bỗng nhiên dừng lại như sự cố mất điện, nhưng thực tế là hệ thống  điện không mất. Cán bộ kỹ thuật kiểm tra kỹ càng, nhận thấy không có vấn đề gì về kỹ thuật. Giám đốc thắp hương, cầu xin, rồi khởi động lại, máy tiếp tục vận hành. Nhưng khi giám đốc đi công tác tỉnh ngoài, máy dừng đột ngột, người khác thắp hương, cầu xin, rồi cho khởi động lại, nhưng máy chỉ như cục sắt, không chạy. Hôm sau giám đốc về, thực hiện nghi thức thắp hương, cầu xin thì máy tiếp tục vận hành. Hiện tượng này có thể có vướng mắc tâm linh, trong đất có thể có tà tinh, cần kiểm tra cụ thể và hóa giải.
- Tại một nhà hàng kinh doanh ăn uống khá đông nhân viên, vị trí kinh doanh thuận lợi, chủ nhà hàng có đầu óc kinh doanh, đã áp dụng một số chiêu chào hàng hấp dẫn nhưng vẫn vắng khách. Mặc dù các nhân viên có hình thức sáng sủa, có trang phục dễ coi, ân cần chào đón khách, phục vụ rất chuyên nghiệp, nhưng nhiều khách vào rồi lại lưỡng lự, tự đi ra, chủ nhà hàng không rõ nguyên nhân. Rồi đến một ngày có bốn nhân viên lần lượt bị vong nhập, khiến nhà hàng trở nên ồn ào và tán loạn. Qua những lời nhân viên bị vong nhập nói ra thì đó là vong tại đất nhà hàng nhập vào. Hiện tượng này rõ ràng có vướng mắc tâm linh, cần lập đàn trấn trạch, triệu thỉnh các vong hồn lên và cầu siêu cho các vong hồn được siêu thoát.
- Có một nam giới khi khởi nghiệp đã huy động vốn của một số người thân để thành lập công ty dưới hình thức vay có thời hạn. Anh ta trở thành giám đốc công ty tư nhân.Trong số những người cho vay có một người phụ nữ khá giàu có đã cho anh ta vay với số tiền rất lớn, gần như toàn bộ tài sản của mình. Một thời gian ngắn sau, người phụ nữ này bị mắc bệnh ung thư, cần tiền để chữa bệnh, nhưng tài khoản cá nhân đã cạn vì đã cho vay. Người phụ nữ này gặp anh giám đốc nói rõ bệnh hiểm nghèo của mình, nay cần tiền chữa bệnh, đề nghị anh giám đốc cho rút lại một phần tiền đã cho vay. Nhưng anh giám đốc từ chối với lý do tiền vay đã đầu tư vào thiết bị, máy móc và nguyên liệu phục vụ sản xuất. Do không có tiền chữa bệnh, ít ngày sau người phụ nữ đó đã qua đời trong sự sân hận, oán trách.
 Doanh nghiệp tư nhân này, sau một thời gian ngắn phát triển, đông khách và đắt hàng, đã chững lại rồi suy thoát. Sản phẩm tồn đọng, không có người mua. Các khoản nợ đến hạn đã phải trả. Doanh nghiệp bên bờ vực phá sản. Vợ chồng anh giám đốc này đi một chặng đường dài tìm gặp một thày tâm linh để xem. Thày tư vấn tâm linh đã chỉ cho vợ chồng anh giám đốc biết: Anh chị bị một vong nữ phá. Người phụ nữ này khi sống đã cho anh chị vay một số tiền rất lớn, nhưng khi chị ta mắc bệnh hiểm nghèo, cần tiền chữa bệnh, chị ấy đã đến hỏi anh, nhưng anh từ chối. Ngay lúc này chị ấy đòi anh khoản tiền đã cho anh vay.Vong hồn chị ấy căm giận anh lắm. Nghiệp lực này không nhỏ, hóa giải sao đây?
-Một phụ nữ ở vùng trung du đã có chồng và con, bị tai nạn giao thông gần một chiếc cầu  nhỏ. Do gia đình khi nhận xác chị ấy về mai táng không thực hiện nghi thức  phục hồn, nên chín năm đã trôi qua, vong không nhập mộ và không về nhà. Nhiều lần gia đình triệu thỉnh, nhưng không về được. Người chồng đã tìm gặp thày tư vấn tâm linh, đã được thày cho biết: Ở chỗ chị ấy bị tai nạn giao thông có rất nhiều vong trẻ con trước đó cũng bị tai nạn giao thông. Các vong trẻ con đã rủ rê chị này ở lại vui chơi với chúng và cùng nhau tiếp tục gây ra các tai nạn giao thông khác tại địa điểm này. Nay gia đình cần mời thày pháp lập đàn để nhập mộ cho vong, triệu thỉnh vong nhập về bát hương gia tiên và cầu siêu cho các vong ở “điểm đen” giao thông đó.
-Trong xã hội có một số ít thày pháp dùng bùa ngải, âm binh và sử dụng như một vũ khí gây hại cho đối tượng. Đời sống con người vốn hàm chứa những mâu thuẫn, xung đột, cạnh tranh, thù ghét. Một số người ác tâm đã đến nhờ thày dùng bùa ngải, âm binh để đánh đối phương. Đối tượng bị đánh sẽ ốm đau, giảm năng lực làm việc, lệch lạc trong ứng xử, thậm chí ngu muội  hoặc điên dại. Những người bị hại này, nếu có phúc hoặc có duyên sẽ gặp được những thày pháp thiện tâm phát hiện và hóa giải.
3.Tư vấn tâm  linh và hóa giải một số vướng mắc tâm linh
Phần lớn quần chúng nhân dân ngày nay đều công khai tín ngưỡng của mình trong thờ cúng Gia tiên, Phật, Thánh, Thần. Họ không chỉ thành tâm hành lễ trước ban thờ tại gia mà còn đi lễ tại đình, chùa, đền, miếu, điện, phủ. Họ thừa nhận có sức mạnh của các thực thể trong Thế Giới Vô Hình mà khoa học hiện đại chưa giải thích được. Do đó, hoạt động tư vấn tâm linh và hóa giải các vướng mắc tâm linh đang là đòi hỏi khách quan.
 Viện Nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng con người đã và đang ứng dụng khả năng đặc biệt của một số người để tư vấn tâm linh và hóa giải một số vướng mắc tâm linh. Chính hoạt động  này là hoạt động mang sắc thái đặc thù của Viện nên được nhiều người quan tâm.
3.1.Tư vấn tâm linh
Để tư vấn được lĩnh vực tâm linh đòi hỏi cán bộ tư vấn phải có căn cơ, phải được một (hoặc một số) chư vị trong Thế Giới Vô Hình chỉ bảo, dẫn dắt, giúp đỡ. Sự chỉ bảo, dẫn dắt, giúp đỡ này thường gọi là tha lực, nghĩa là năng lực của họ có được không phải học từ trường lớp nào trên Cõi Trần mà được một hoặc một số thực thể vô hình giúp đỡ. Họ biết và nói ra những điều mà người khác không biết vì họ tiếp nhận được thông tin từ Thế Giới Vô Hình. Chị Trần Thị Thơ và chị  Nguyễn Thị Thanh Hoa thực hiện công tác tư vấn tâm linh tại Viện Nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng con người là những người như thế.
1/ Chị Trần Thị Anh Thơ xem quân bài hoặc xem quả cau để nhận thông tin. Cũng có nhiều trường hợp chị chỉ ngồi đối diện với khách, nắm bàn tay của khách, tiếp nhận được thông tin từ thế giới vô hình để tư vấn cho khách về gia sự dưới góc độ tâm linh. Nhờ sự dẫn dắt và mách bảo của chư vị vô hình, chị phát hiện những vướng mắc tâm linh hiện tại của cá nhân hoặc gia đình khách đến xem. Đó là những lời mách bảo mà người trần không biết, hoặc  đang trong tâm trạng phân vân, nghi vấn, nên cần đến sự trợ giúp của cán bộ tư vấn để vấn đề rõ ràng hơn, đầy đủ hơn.Tùy theo từng trường hợp do khách yêu cầu, chị nói về quá khứ của khách, hiện tại của khách hoặc dự báo về tương lai của khách.Chị chỉ ra phần âm của dòng họ hoặc của gia đình khách đến xem với trạng thái thuận hay không thuận, bình an hay vướng mắc? Trong một số trường hợp cụ thể, khi khách lúng túng trong việc lựa chọn hướng giải quyết, chị thường tư vấn cho khách theo cách hướng thiện, chân tình.Chị Thơ nói với một phụ nữ: “Vợ chồng anh chị đang khủng hoảng trầm trọng, khó hàn gắn, nhưng chưa bỏ được nhau. Chị nên trách chồng một còn cần tự trách mình hai. Lỗi tại chị. Nếu chị không muốn tan vỡ gia đình thì chị phải thấy được lỗi của mình”. Khi xem cho một cô gái trẻ trung, xinh xắn, chị Thơ phát hiện cô này chưa có chồng nhưng đã bỏ thai nhiều lần, chị Thơ khuyên: “Em cần thận trọng trong quan hệ với người khác giới và cần phải biết bảo vệ mình.Chị thấy em bỏ thai nhiều lần quá. Sau này em lấy chồng nuôi con rất khó. Có khi không có con được”. Một lần khác, chị Thơ nói với một khách khoảng ngoài năm mươi tuổi: “Chú đang tranh chấp đất đai hương hỏa do gia tiên để lại cho mấy anh em. Chú cần ôn hòa, biết điều và rộng lượng. Nếu chú cố gắng để thắng trong cuộc tranh chấp này thì cũng sẽ mất hết tình anh em.Chú sẽ mất nhiều hơn được. Gia tiên sẽ rất buồn về chú.Hàng xóm sẽ chê trách chú”. Trong khi nghe chị Thơ tư vấn, khách có phản xạ tư nhiên, thường nói : “Đúng!” hoặc “ Lạy thày!”. Do vốn hiểu biết của chị Thơ về xã hội khá tốt, nên từ ngữ diễn đạt nội dung tư vấn giản dị và chính xác. Đồng thời chị Thơ có lòng nhân ái, tư vấn hợp đạo lý và luôn hướng thiện nên có được uy tín với khách hàng.
2/ Chị Nguyễn Thị Thanh Hoa có khả năng nhìn thấy được người âm và nghe được tiếng  người âm nói. Phương pháp tư vấn của chị Nguyễn Thị Thanh Hoa là trực tiếp nghe người âm nói, rồi nói lại với khách xem. Người âm ở đây thường là gia tiên của khách xem. Để thực hiện được điều này, người muốn được tư vấn cần thắp hương tại bàn thờ của gia đình, cung kính mời Gia Tiên đến địa chỉ của Viện với thời gian dự định để gặp gỡ, giao lưu với con cháu dưới sự trợ giúp của chị Nguyễn Thị Thanh Hoa. Vong linh gia tiên người xem sẽ xuất hiện phía trước chị Hoa, chủ động xưng danh với chị Hoa để chị Hoa mời người nhà của vong linh vào trò chuyện. Người nhà của vong linh hỏi gia tiên các vấn đề mình quan tâm. Gia tiên thường ân cần chỉ bảo cho con cháu các vấn đề con cháu quan tâm, như:
- Mộ phần an lành hay bị động long mạch hoặc bị trấn yểm;
- Cho con cháu biết vận hạn sắp xảy ra để thận trọng. Có vong linh gia tiên còn khuyên bảo con cháu cách tránh. Ví dụ, không đi vào đoạn đường cụ thể nào đó vì đi vào đoạn đường đó sẽ sảy ra tai nạn; hoặc không nên cho chị A cùng doanh nghiệp vay tiền vì chị A sẽ không trả tiền đâu; hoặc không nên chơi thân với anh C cùng cơ quan vì anh ta sẽ đem lại sự rắc rối đấy !
- Gia tiên còn báo cho con cháu biết đã bị vong lạ theo hoặc đã bị kẻ xấu hại bằng cách yểm bùa.
- Có vong linh gia tiên còn mách bảo con cháu không nên kinh doanh mặt hàng y, mà nên đầu tư kinh doanh mặt hàng z và cần liên kết với ai trong kinh doanh;
- Có vong linh gia tiên biết con cháu đang tạo nghiệp xấu gì và yêu cầu phải chấm dứt. Nếu không, hậu quả xấu sẽ xảy ra.
- Có vong linh gia tiên báo cho con cháu biết sự thờ phụng lâu nay đã đúng hay chưa đúng, nếu chưa đúng thì cần làm thế nào cho đúng.
- Có vong linh gia tiên biết con cháu đang bị vướng mắc tâm linh, đã mách bảo con cháu cách tự lễ hóa giải hoặc vướng mắc nặng thì cần mời thày lập đàn hóa giải.
Những ai đã từng được gặp gia tiên, giao lưu với gia tiên theo phương pháp này đều thấy người âm biết nhiều hơn chúng ta. Người nhà vong linh thường dùng điện thoại để ghi âm lại nội dung cuộc gặp gỡ này, về nhà nghe lại cho rõ hơn để thực hiện. Với các “ca” tư vấn đem lại sự hài lòng cho khách, thường chia ra làm hai loại :
Một là, Khách không những được gia tiên chỉ bảo mà còn được chị Hoa tư vấn thêm trên cơ sở thông tin qua cuộc hỏi – đáp giữa con cháu với gia tiên nên vấn đề trở nên khá rõ ràng. Con cháu hiểu việc gì cần tránh, việc gì cần làm và làm như thế nào? Những trường hợp này, sau khi con cháu được gặp gia tiên đều rất hoan hỉ.
Hai là, những trường hợp cá nhân hoặc gia đình hoặc doanh nghiệp có vướng mắc lớn về tâm linh, đã được gia tiên chỉ ra cần hóa giải thì cần mời thày lập đàn hóa giải.
3.2. Hóa giải một số vướng mắc tâm linh
Chị Dương Thị Liễu và chị Trịnh Thị Lan là hai cán bộ của Viện thực hiện công việc hóa giải một số vướng mắc tâm linh. Hai chị đều tu tại gia, có khả năng ứng dụng Phật pháp để hóa giải một số vướng mắc tâm linh. Đồng thời hai chị còn có kiến thức về phong thủy và có khả năng ứng dụng môn khoa học này vào cuộc sống như tri thức bổ trợ trong việc hóa giải các vướng mắc tâm linh.
1/ Chị Dương Thị Liễu thờ Phật và thờ Mẫu. Khi hóa giải vướng mắc tâm linh cho khách, chị Liễu thực hiện theo  dòng tịnh độ của Phật giáo có kết hợp với Đạo Mẫu. Đồng thời, chị Liễu ứng dụng kiến thức phong thủy để xử lý hóa giải một số trường hợp vướng mắc về dương trạch và âm trạch theo yêu cầu của khách. Do có căn cơ cao trong Đạo Mẫu, chị Liễu còn hóa giải tiễn căn đồng cho một số người.Trong đời sống có một số người có căn hầu đồng, thậm chí từng có thời gian hầu đồng, nhưng vì nhiều lý do khác nhau nay không thể tiếp tục hầu đồng được nữa. Những người này cần thực hiện nghi thức tiễn căn đồng. Nếu không thực hiện nghi thức tâm linh này thì sức khỏe người đó thường ốm yếu, công việc vướng mắc, kinh tế khó khăn lại càng khó khăn. Chị Dương Thị Liễu là người có căn cơ, có uy tín thực hiện nghi thức tiễn đồng để hóa giải khó khăn cho những người có căn đồng nêu trên.
2/ Trịnh Thị Lan đã trên 20 năm tu tập Mật tông theo dòng Mật Tông cổ của Việt Nam – thường gọi là dòng Cổ Mật Liên Hoa. Nhờ được Thày Tổ trong cõi vô hình hướng dẫn, gia hộ, chị Lan có thể soi từ xa hoặc đến hiện trường soi theo lời mời để giúp cho khách có nhu cầu. Qua soi, chị biết được:
+ Đất ở của gia đình hoặc của doanh nghiệp sạch hay không sạch? Nếu không sạch thì chị biết có các vong hồn lẩn quất hay tà tinh quấy phá?
+ Mộ gia tiên bình an hay bị động long mạch hoặc bị yểm?
+ Cơ thể của khách khỏe mạnh bình thường hay trong người khách đã bị kẻ xấu yểm bùa ngải, âm binh gây hại?
+ Các bát hương đang thờ tại gia có linh hay không linh hoặc có vướng mắc gì về tâm linh không?
+ Khi chị Lan bắt mạch trên cổ tay của khách, chị có thể xác định được người đó có vong theo hay không?  Nếu có thì vong đó là nam hay nữ?  Vong đó theo từ đất ở của gia đình hay vong từ nơi khác bám theo? Đối với một số nam nữ thanh niên đã cao tuổi nhưng khó xây dựng gia đình vì có vong theo và phá không cho người dương yêu thương người dương, chị Lan có thể phát hiện vong đó là vong duyên kiếp trước hay đó là duyên kiếp này?
Tôi đã chứng kiến chị Lan đã giúp đỡ nhiều gia đình, nhiều doanh nghiệp lập đàn tràng theo dòng Cổ Mật Liên Hoa trấn trạch để:
-        Hóa giải bùa ngải, tà khí, âm khí tại bản thổ và trong người của tín chủ;
-        Trục tà tinh, âm binh, các vong hồn lẩn quất  tại bản thổ và theo các tín chủ;
-        Cầu siêu cho các vong linh, các âm binh, các tà tinh tại bản thổ và từng theo tín chủ được siêu thoát.
 Đây là phương pháp ứng dụng Phật pháp để làm “sạch đất” ở của gia đình hoặc đất doanh nghiệp, nhằm kiến tạo môi  trường sống của gia đình được trong lành, mạnh khỏe hoặc môi trường doanh nghiệp được trong sạch có nhiều sinh khí để sản xuất – kinh doanh phát đạt.
Một số người bị vong lạ dựa theo người hoặc ám vào người làm cho sức khỏe của người đó bị suy giảm, nhiều khi người đó làm những việc lạ lùng, không chủ định.Người bị vong theo thường ăn không ngon, ngủ không yên, khó gần mọi người. Có trương hợp một thanh niên bị vong nữ theo dẫn đến sao nhãng tình cảm chăn gối với vợ. Sau một thời gian dài chăn đơn gối chiếc, vợ nghi là chồng mình ngoại tình, đã từng bí mật theo dõi nhiều lần, nhưng không phát hiện được gì. Đến khi anh thanh niên này gặp chị Lan, chị Lan phát hiện anh này có vong nữ theo và nói rõ: giữa anh ta với vong nữ đó có tình cảm khá sâu sắc. Sau đó anh thanh niên này thú nhận: đôi khi giữa anh ta với vong nữ đã có tình cảm với nhau như vợ chồng. Thấy rõ sự việc, cặp vợ chồng này đề nghị chị Lan giúp. Chị Lan đã lập đàn hóa giải, cầu siêu cho vong nữ đó siêu thoát. Người vợ hết hiểu lầm chồng. Sau đó người chồng mạnh khỏe, chăm chỉ làm ăn, thân thiện với mọi người. Hai vợ chồng tiếp tục sống cùng nhau hạnh phúc.
Nhiều trường hợp nam nữ thanh niên đã cứng tuổi, nhưng có duyên âm cản trở nên khó xây dựng gia đình, chị Lan ứng dụng Phật pháp đã lập đàn  căt duyên âm, trong đó có trục vong ra khỏi người và tuyên sớ điệp cắt duyên âm, để người âm trở về cõi âm, đồng thời cầu siêu cho vong linh đó siêu thoát. Không lâu sau, người được cắt duyên âm đã gặp được nửa thứ hai của đời mình, tổ chức lễ cưới, xây dựng hạnh phúc gia đình.
Nhiều khách được chị Trịnh Thị Lan hóa giải vướng mắc tâm linh đã nhận xét: Nội dung diễn tiến trong buổi đàn lễ hóa giải rất logic, nhân văn và khoa học.” Hoặc có người nhận xét: “Gia đình đã nhận biết kết quả hóa giải ngay khi buổi đàn lễ kết thúc. Không trừu tượng mà khá rõ ràng.”Trong mọi trường hợp trục vong hay cắt duyên âm, chị Lan đều không dùng pháp để trói, để đánh vong mà thành tâm khai thị, giảng giải, thuyết phục vong. Từ đó, vong tự giác hướng thiện, không tạo nghiệp ác nữa. Trong đó có một số vong xin được ở bên để hỗ trợ, giúp đỡ lại người Trần, hoặc xin được nương theo người trần  để tu tập, học hỏi nhằm tạo được nhân lành và thăng tiến về tâm linh. Thông qua thực tiễn hoạt động hóa giải vướng mắc tâm linh, bước đầu đã mở ra: “Khả năng giúp đỡ hai chiều giữa người trần gian với vong và giữa vong với người trần gian để âm- dương giảm đi sự cách biệt, hỗ trợ nhau tồn tại và phát triển trong sự hướng thiện, loại trừ cái ác, giúp cho quốc thái dân an.”[6]
                                                     Thay lời kết
Bài viết này chỉ đề cập tới hoạt động tư vấn tâm linh và hóa giải một số vướng mắc tâm linh của Trung tâm Trắc nghiệm và tư vấn do lãnh đạo Viện trược tiếp chỉ đạo, chưa đề cập đến tư vấn tâm linh và hóa giải vướng mắc tâm linh do một số người có khả năng đặc biệt là cộng tác viên của Viện thực hiện ở một số dịa phương.
Hoạt động tư vấn tâm linh và hóa giải các vướng mắc tâm linh cũng giống như hoạt động của các lĩnh vực khác, có thành công và có sự hạn chế, không phải mọi trường hợp đều cho kết quả viên mãn.Tư vấn tâm linh và hóa giải các vướng mắc tâm linh phụ thuộc vào cả Chủ thể và Khách thể.
 Chủ thể là cán bộ tư vấn( hay các thày) cần có hai yếu tố: Tự lực và tha lực.Tự lực là lực có được nhờ sự gắng công tu tập của cá nhân. Tha lực là lực được độ của các chư vị trong Thế Giới Vô Hình, nhờ duyên mà có được.Vì lý do nào đó, nếu một trong hai yếu tố bị suy giảm thì cuộc tư vấn đó hoặc buổi đàn lễ để hóa giải vướng mắc tâm linh đó kết quả sẽ không cao.
Khách thể là khách xem (hay đối tượng muốn được tư vấn tâm linh và hóa giải các vướng mắc tâm linh) đã sẵn sàng tâm thế chưa cũng sẽ chi phối rất lớn đến kết quả làm việc. Đồng thời mức độ  hợp tác giữa chủ thể và khách thể trong thủ tục thực hiện nghi thức tâm linh cũng ảnh hưởng rất lớn đến kết quả. Trong trường hợp tư vấn tâm linh của chị Nguyễn Thị Thanh Hoa, nếu vì lý do nào đó mà vong linh gia tiên người xem không đến thì chị Hoa không thực hiện được vai trò “ cầu nối”, vai trò “phiên dịch” giữa vong linh gia tiên với con cháu họ.
Cần nhấn mạnh rằng: Trong hoạt động tư vấn tâm linh và hóa giải vướng mắc tâm linh, có cầu mới có ứng. Nhưng không phải trường hợp nào cầu cũng được đáp ứng.
 Các thày không giúp khi:
Tâm không thành kính
Bán tín bán nghi
Phỉ báng Thánh, Thần
Trọng tiền, khinh mệnh
Duyên chưa đến.
Việc ứng dụng khả năng đặc biệt của con người để tư vấn tâm linh và hóa giải một số vướng mắc tâm linh đã có từ xa xưa ở nhiều quốc gia, nhiều dân tộc. Viện Nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng con người bước đầu tổ chức hoạt động tư vấn tâm linh và hóa giải một số vướng mắc tâm linh nhằm đáp ứng một phần nhu cầu xã hội, góp phần quốc thái dân an. Thời gian qua, với số lượng ca thực hiện còn khiêm tốn, Viện vừa làm vừa rút kinh nghiệm để ngày càng nâng cao chất lượng hơn, hoàn thiện hơn, phục vụ nhu cầu xã hội ngày một tốt hơn.
                                                                                                       B.T.Q.



[1] PGS TS, Phó Viện trưởng, Phó Chủ tịch HĐ Viện NC&UDTNCN
[2] Bùi Tiến Quý : Cách tiếp cận nghiên cứu của Bộ môn Cận tâm lý là đáng tin cậy và một số vấn đề hữu quan, trong cuốn  « Bước vào thế giới vô hình »,Bộ môn Cận tâm lý, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, NXB Văn hóa Thông tin, HN 2011, tr.75-76.
[3] Blair T. Spalding, Hành trình về Phương Đông( Nguyên Phong dịch), NXB Hồng Đức, 2011, tr.147.
[4] Blair T. Spalding, sdd, tr.147.
[5] Đoàn Xuân Mượu: Khoa học và vấn đề tâm linh, NXB Thanh niên, HN 2010, tr.195-196.
[6] Bùi Tiến Quý : Cách tiếp cận nghiên cứu của Bộ môn Cận tâm lý là đáng tin cậy và một số vấn đề hữu quan, trong cuốn  « Bước vào thế giới vô hình »,Bộ môn Cận tâm lý, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, NXB Văn hóa Thông tin, HN 2011, tr.76.

VẤN ĐỀ GIÁM ĐỊNH TRONG VIỆC TÌM HÀI CỐT LIỆT SĨ

Bài đăng trong Kỷ yếu Hội nghị khoa học toàn quốc về "Nghiên cứu và ứng dụng khả năng đặc biệt của con người"


VẤN ĐỀ GIÁM ĐỊNH VẬT TÙY TÁNG VÀ HÀI CỐT
TRONG VIỆC TÌM HÀI CỐT LIỆT SĨ
                                                      
Ngô Tiến Quý[1]                                                                             

          Ngày 14.01.2013, Chính phủ ban hành Quyết định số 150/QĐ-CP quy định việc xác định danh tính liệt sĩ chưa rõ thông tin phải bằng phương pháp thực chứng và giám định gen.  Trong phạm vi bài viết này, phần đầu chúng tôi xin cung cấp cho đọc giả những hiểu biết rất cơ bản về khả năng áp dụng giám định Kĩ thuật hình sự  (GĐ KTHS) trong việc tìm hài cốt liệt sĩ. Phần thứ hai sẽ đề cặp đến vấn đề giám định hài cốt trong việc tìm mộ liệt sĩ, với tâm nguyện góp phần nâng cao hiệu quả và đảm bảo độ chính xác trong việc xác định hài cốt liệt sĩ, những người đã hy sinh vì nền độc lập và tự do của Tổ quốc, để chúng ta có được ngày hôm nay và để góp phần thực hiện đúng Quyết định 150 của Chính phủ.
1. Trên thế giới, GĐ KTHS đã có từ hơn 100 năm nay. GĐ KTHS là một lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ của ngành Công an, ứng dụng tất cả những tiến bộ khoa học, kĩ thuật và công nghệ vào việc phát hiện, thu thập, giám định vật chứng và dấu vết của vụ việc, phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm cũng như xử lý các vi phạm pháp luật khác. GĐ KTHS cũng đáp ứng việc giải quyết các yêu cầu về dân sự và hành chính.
          Hiện nay, GĐ KTHS có những lĩnh vực chuyên môn có thể liên quan đến việc xác định danh tính liệt sĩ như sau:
          - Giám định súng đạn và dấu vết súng đạn
          - Giám định Kĩ thuật, kim loại, nhựa
          - Giám định chất nổ, vật nổ
          - Giám định chữ viết, giấy, mực viết
          - Giám định Hóa học
          - Giám định Lý học
          - Giám định Sinh học.
          Liên hệ với việc tìm mộ liệt sĩ trong những năm vừa qua, chúng tôi thấy rằng GĐ KTHS có thể hỗ trợ rất nhiều cho việc xác định sự thật trong việc tìm mộ, xác định danh tính của liệt sĩ, hoàn cảnh hi sinh, hoàn cảnh chôn cất,… thông qua giám định các vật tùy táng thu được trong khi khai quật hài cốt. Mặt khác GĐ KTHS cũng là một biện pháp khoa học hữu hiệu nhất để phát hiện những vật tùy táng khi có nghi vấn là vật giả (đặc biệt là việc tìm mộ Liệt sĩ do những người là các nhà ngoại cảm giả mạo thực hiện để đánh lừa thân nhân liệt sĩ cũng như những người khác).
          Qua thực tiễn tìm mộ liệt sĩ, chúng tôi thấy xuất hiện rất nhiều vật tùy táng khác nhau, nhưng chủ yếu có thể liệt kê các loại sau đây:
          - Viên đạn, đầu đạn hoặc vỏ đạn, vỏ quả lựu đạn…chủ yếu thuộc hệ thống vũ khí cá nhân do các nước xã hội chủ nghĩa trước đây như Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc sản xuất (AK, CKC, các loại súng ngắn, lựu đạn mỏ vịt…). Ngoài ra, ở các chiến trường phía nam trước đây còn có đạn của súng AR15 của Mỹ
- Tăng bạt, võng, quân trang của bộ đội Việt Nam (tăng bạt bọc thi hài liệt sĩ; quân trang, quân dụng: sao mũ, giày, dép cao su, con dao nhỏ, cúc áo nhưa, miếng kim loại, bút máy, đồng hồ được đưa vào như những vật để đánh dấu khi có điều kiện tìm mộ liệt sĩ)
          - Những vật dụng hàng ngày (bi đông, ca đựng nước, bát sắt), mảnh kim loại (thường là nhôm, hợp kim nhôm) khắc tên Liệt sĩ, đơn vị của Liệt sĩ hoặc lược bằng hợp kim nhôm có khắc tên làm vật kỉ niệm của đồng đội, người yêu liệt sĩ (chiếc lược chải đầu, cặp tóc phụ nữ…)
          - Miếng kim loại, tấm gỗ khắc tên liệt sĩ, ngày hi sinh
          - Lọ thủy tinh nhỏ (thường là lọ đựng thuốc kháng sinh Penicilin) được nút chặt, bên trong có mảnh giấy viết tên liệt sĩ, ngày hy sinh, tên đơn vị, có giấy ghi cả quê quán liệt sĩ, tên thân nhân liệt sĩ
          - Răng giả của liệt sĩ bằng kim loại vàng hoặc bọc kim loại vàng
          - Ảnh của liệt sĩ chụp cá nhân hoặc chụp với thân nhân, đồng đội…
          Tần suất xuất hiện của vật tùy táng nói chung là không cao (có thể là đang trong chiến đấu thì liệt sĩ được chôn cất), có nghĩa là chỉ đôi khi mới thấy, nhưng giá trị lại rất lớn. Phổ biến nhất là tăng bạt được sử dụng để bọc thi hài liệt sĩ khi chôn cất.
          Tất cả các loại vật tùy táng nêu trên, khi phát hiện thấy trong quá trình tìm hài cốt, về lý thuyết thì đều có thể giám định để kết hợp với các thông tin khác, giúp cho việc xác định chính xác danh tính liệt sĩ. Trong những trường hợp hài cốt của liệt sĩ đã bị phân hủy mạnh hoặc phân hủy hết, không giám định được gen (AND) thì vật tùy táng là những chứng cứ vật chất vô cùng có giá trị bên cạnh những thông tin lưu trong hồ sơ liệt sĩ (nếu có) hoặc do các nhà ngoại cảm, do đồng đội hoặc người dân đã chôn cất liệt sĩ cung cấp.

          Để việc giám định thu được kết quả tốt, thì tất cả các vật tùy táng khi phát hiện được đều phải bảo quản nguyên vẹn, không để bị vỡ, nát. Trường hợp di vật bị ướt thì phải để khô trong môi trường nhiệt độ bình thường, không nên phơi nắng hay làm khô bằng máy xấy tóc, hơ trên lửa, bếp ga, bếp điện. Các vật tùy táng phải được bảo quan riêng rẽ, không gói chung, phải có biên bản ghi chi tiết nơi thu, hoàn cảnh thu…Nếu là vật có ý nghiã quan trọng thì phải niêm phong cẩn thận tránh bị lẫn, hư hỏng.
Trong tất cả các trường hợp đều nên thu mẫu đất nơi có hài cốt (đất ở  hố chôn hài cốt, không lẫn xương, mùn xương), để khô tự nhiên rồi gói bằng giấy, sau mới có thể cho vào túi ni lon.
          Giám định là việc phân tích, so sánh nên phải có mẫu so sánh (vật đối chứng) thì mới ra được kết luận giám định chính xác. Tuy nhiên, với đặc thù của việc tìm hài cốt liệt sĩ là các vật tùy táng đích thực đều có niên đại cùng thời liệt sĩ, nên nếu xác định được “tuổi” tương đối của vật tùy táng (nếu như không có mẫu so sánh) thì cũng giúp thêm cơ sở khoa học trong việc xác định danh tính liệt sĩ.
          Trong trường hợp nghi vật tùy táng bị làm giả thì có thể dùng phương pháp loại trừ để kết luận.Ví dụ: lọ Penicilin mới được sản xuất chứ không phải được sản xuất từ những năm 1960 thế kỉ XX (thông qua giám định thủy tinh), giấy ghi danh liệt sĩ là giấy Bãi Bằng chứ không phải giấy của những năm chiến tranh (thông qua giám định giấy), mực bút bi mới có sau chiến tranh chứ không phải mực Cửu Long trước đây…
          Nói chung, khi cần biết giá trị của vật tùy táng đối với việc xác định hài cốt liệt sĩ thì đều phải thông qua GĐ KTHS. Kết quả giám định tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trực tiếp là vật tùy táng, chứ không phải vụ nào cũng làm được hoặc cho kết quả chính xác tuyệt đối.
          Trong giám định, nếu có chữ viết của Liệt sĩ (chữ viết sau ảnh, thư viết cho gia đình chưa kịp gửi...) thì kết luận giám định có giá trị tất lớn, vì giám định chữ viết truy nguyên (xác định) trực tiếp được người viết. Còn hầu hết các loại giám định khác đều chỉ truy nguyên (xác định) được gián tiếp.
Tuy nhiên, khi đang phải “mò kim đáy bể” thì những thông tin dù nhỏ đến mấy, nhưng lại mang tính khách quan thì đều có ý nghĩa trong việc tìm hài cốt liệt sĩ.
2. Đối với một bộ hài cốt còn đầy đủ thì có thể tiến hành giám định hình thái và giám định gen.
          Giám định hình thái là phương pháp giám định cấu trúc bên ngoài của hài cốt. Những năm 1950, 1960 của thế kỉ XX, nhà khoa học Geraximop của Liên xô đã cho ra đời phương pháp giám định hình thái sọ người bằng cách đo thủ công các thông số trên bề mặt xương sọ (được gọi là phương pháp Geraximop). Ngày nay, người ta dùng phương pháp quét trên bề mặt hộp sọ bằng một phần mềm vi tính để thu thập dữ liệu, độ chính xác rất cao vì khối lượng đặc điểm được thu thập rất lớn.
          Giám định gen (AND) là một phương pháp khoa học chính xác đề xác định danh tính của một cá thể. Đối với người sống thì giám định gen trong nhân tế bào (xác định huyết thống). Đối với hài cốt thì phải giám định gen ty thể.  Tuy nhiên, cơ thể người sau khi chết sẽ nhanh chóng biến đổi về cấu trúc gen. Thời gian sau chết càng lâu thì gen trong thi thể càng biến tính và mai một nhiều.
          Ở người, gen ty thể có chứa nhiều đặc điểm cấu trúc gen riêng đặc trưng cho các cá thể trong một nhóm cá thể có nguồn gốc theo dòng mẹ, vì khi thụ thai, sau khi đầu tinh trùng chui qua màng trứng thì phần cổ và đuôi rụng ra ngoài không chui vào trong trứng, mà gen ty thể của tinh trùng lại chủ yếu tập trung ở phần cổ và phần đuôi. Hệ gen ty thể rất bền vững qua nhiều thế hệ. Tuy nhiên, giám định gen ty thể không có khả năng truy nguyên cá thể, nó chỉ có tính chất loại trừ hay truy nguyên theo nhóm cá thể có quan hệ huyết thống với nhau theo dòng mẹ.
          Ở hài cốt chôn cất lâu năm, gen chỉ tồn tại một lượng không nhiều trong ty thể ở những bộ phận có cấu trúc bền vững như răng, xương cứng (thân tóc cũng mang gen ty thể, nhưng tóc là cấu trúc bị đột biến gen ty thể nhiều hơn các cấu trúc khác, nên tóc không có giá trị bằng răng và xương). Khả năng giám định được và kết quả giám định gen ty thể phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như thời gian chôn cất (càng lâu càng khó làm), nơi chôn cất (chất đất, hóa chất, siêu vi trùng…), thể trạng người khi còn sống, tình trạng khi chết. Hài cốt đã mủn, mục, đã hóa thì không thể giám định được gen ty thể.
          Trong giám định hài cốt liệt sĩ thì mẫu thu từ hài cốt để giám định là răng hàm (từ 1-2 chiếc) và mảnh xương bả vai, đùi, cánh tay (mảnh khoảng 3 cm2 ) chưa mủn, còn cứng. Còn mẫu so sánh thu của thân nhân theo dòng mẹ là khoảng  4 -5 giọt máu, thấm vào gạc y tế (không có bông) vô trùng, để khô tự nhiên, sau gói trong giấy sạch (không gói bằng túi ni lông).
          Quy trình giám định gen ty thể gồm các bước sau: Các mẫu thu từ hài cốt được làm sạch và nghiền thành bột trong nitơ lỏng, rồi ngâm trong hóa chất đặc biệt. Tiếp theo là công đoạn tách chiết, công đoạn nhân bản và giải trình tự gen. Những công đoạn này do máy tự động thực hiện trong môi trường vô trùng. Và cuối cùng một phần mềm máy tính thực hiện việc so sánh trình tự gen của hài cốt với trình tự gen mẫu của thân nhân (cũng đã được phân tích theo quy trình giám định gen trong nhân tế bào).
          Hiện tại, công nghệ giải trình tự gen thế hệ mới – giám định gen trong nhân tế bào và gen ti thể mới đang đang được giới thiệu,  chứ chưa được đưa vào áp dụng trong thực tiễn. Các phòng thí nghiệm giám định gen vẫn đang thực hiện giám định theo công nghệ đã có từ mấy năm nay.
          Như vậy, để xác định chính xác danh tính liệt sĩ thì có nhiều phương pháp. Giám định gen không phải là phương pháp duy nhất, mà còn có cả GĐ KTHS. Tuy nhiên, biện pháp nào cũng có những giới hạn nhất định, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố.  Chúng tôi xin giới thiệu để độc giả có thông tin chuẩn xác và tùy cơ áp dụng trong những điều kiện phù hợp./.



[1] Thiếu tướng, PGS TS, Viện trưởng Viện NC&UDTNCN