Cộng đồng người Việt 500 năm trên đất Trung
Quốc
Người Kinh Tam Đảo, cộng
đồng người Kinh chủ yếu và có lẽ còn mang nhiều bản sắc văn hóa Việt Nam nhất
tại Trung Quốc. Hơn 500 năm định cư trên đất Trung Quốc, với vẻn vẹn hơn 2
vạn người, Kinh tộc không những đã lớn mạnh trở thành cộng đồng dân tộc thiểu
số có nền kinh tế phát triển nhất, mà còn là một trong những dân tộc vẫn giữ
nguyên vẹn những nét đặc sắc nhất của văn Hóa cộng đồng người Việt.
1. 8h sáng. Miếu thờ Bạch
Long Trấn Hải Đại Vương của thôn Vũ Đầu, một trong 3 thôn người dân tộc Kinh
tại Kinh Đảo, thị trấn Giang Bình, huyện Đông Hưng, thị xã Phòng Thành, Trung
Quốc… đã trang trọng khói hương nghi ngút.
Chỉ chút nữa thôi, đoàn
rước kiệu đông đảo, đại diện cho người dân của 3 thôn Vũ Đầu, Sơn Tâm, Vạn Vỹ
và quan khách đến từ khắp nơi, kể cả từ Việt Nam sang… sẽ long trọng đi vòng
quanh làng, rồi đến làm lễ ở miếu.
Trước ngày khai hội chừng
một tuần, mỗi gia đình phải đăng ký một suất đinh tham dự việc chuẩn bị cỗ
bàn cho làng. Từ đêm trước hôm chính hội, họ phải tất bật nấu nướng để chuẩn
bị cho 130 mâm cỗ, tương ứng với 1.300 khách đến dự hội.
Trong hàng trăm trung niên
và người cao tuổi được trọng vọng trong làng, 24 người sẽ được lựa chọn làm
thành viên cho Ban khánh tiết. Ban khánh tiết sẽ bầu ra Ban tế, với đầy đủ
các chức danh như Chủ tế, Bồi tế, Đông xướng, Tây xướng, Nội tán, Chấp sự,
Đồng văn… giống như các hội làng Việt.
Chủ tế năm nay là cụ Lưu
Thượng Tân, 82 tuổi, được vinh dự chọn trong các đại diện cho hội làng thôn
Vũ Đầu. Theo phong tục vẫn được bảo tồn nguyên vẹn như cách đây hơn 500 năm ở
đất Đồ Sơn, Hải Phòng, chủ tế chủ trì nghi lễ là người cao niên có phẩm hàm
hay đỗ đạt cao nhất làng, hoặc là ông tiên chỉ, hay là một nhân sỹ có uy tín.
Hơn 500 năm trước,, vào
thời Lê sơ (1511) theo những phả hệ được viết bằng chữ Nôm vẫn được lưu giữ
trong đình làng, tổ tiên của cụ Lưu Thượng Tân đã từ vùng Đồ Sơn (Hải Phòng,
Việt Nam) đến định cư tại vùng đất tam đảo này.
100 người đầu tiên, thuộc
12 dòng họ, đã đến định cư tại đây, để rồi sau này trở thành 3 làng lớn: Vạn
Vỹ, Vũ Đầu và Sơn Tâm.
Cuộc di cư xa xưa đó, cùng
với huyền sử, Bạch Long Trấn Hải Đại Vương chính là người có công giúp Kinh
tộc giết chết con rết thần vẫn thường nổi sóng gió bắt ngư dân trên biển.
Sau khi chết, con rết thần
hoá thành 3 hòn đảo, nay là 3 thôn Vũ Đầu, Sơn Tâm và Vạn Vỹ… đã tạo nên một
dân tộc thiểu số mới, đầy đặn các nét văn hoá đặc trưng riêng biệt, trên đất
Trung Hoa.
Và cái tên Kinh tộc Tam Đảo
cũng có tên từ điển cố đó.
2. Hội làng người Việt tại
Kinh Đảo năm nào cũng đón những vị khách đặc biệt: bà con bạn bè từ Trà Cổ,
Móng Cái sang chơi. Bà Bùi Thị Chiên, đến từ Trà Cổ, nổi bật trong lễ hội với
trang phục khăn mỏ quạ, nón quai thao và áo tứ thân.
Bà Chiên cho biết, năm nào
bà và bạn bè cũng sang hội làng bên này. Mấy năm trước, nhóm của bà Chiên còn
biểu diễn hát giao duyên, hát quan họ liền anh liền chị trong hội làng.
Còn bên Trà Cổ, nếu có hội
thì 3 làng bên này cũng cử người sang tham dự, như không hề bị phân cách bởi
ranh giới quốc gia.
Thì cũng phải thôi, đứng ở
bãi biển Vạn Vỹ, ngó về hướng Nam, sẽ thấy một vệt mờ mờ xanh xanh, đó là Trà
Cổ. Đứng ở mũi Trà Cổ, ngó về phương bắc, sẽ thấy một vụng biển hõm sâu vào
đất liền, ấy là đất Tam Đảo Kinh tộc.
Nhiều năm nay, hội làng của
người Kinh trên đất Tam Đảo cũng trở thành một địa chỉ văn hoá cho khách du
lịch. Đặc biệt, kể từ thời điểm “đại sứ” của văn hoá người Kinh là cây đàn
bầu bắt đầu vượt khỏi ranh giới địa lý vùng.
Đầu những năm 1950, nghệ
nhân người Kinh Tô Thiện Huy đã đưa đàn bầu lên sân khấu biểu diễn. Những bản
phổ ký âm đầu tiên bằng nhạc số cho đàn bầu cũng ra đời. Kể từ thời điểm đó,
cây đàn bầu có nguồn cội Việt ngày càng được nâng cao về kỹ thuật cũng như
phong cách biểu diễn.
Đàn bầu của người Kinh được
chế tác bằng gỗ lim, được gắn các thiết bị âm thanh bằng điện. Thậm chí, cây
đàn bầu khổng lồ đang được trưng bày trong đình làng Vạn Vỹ còn được đưa đi
lưu diễn khắp đất Trung Quốc.
Cô gái gốc Việt xuất thân
từ làng Vạn Vỹ có tên Tô Hải Trân, đã được vinh danh gắn liền với cây đàn
bầu, khi biên tập và phát hành tập nhạc chuyên về đàn bầu hàng đầu Trung Quốc
mang tên “Hải vận ma ảnh”, gồm 11 bài.
Không chỉ nổi tiếng về cây
đàn bầu, hội làng Việt tại Kinh đảo còn thu hút khách du lịch bởi bề dày văn
hoá đặc trưng khác biệt. Tà áo dài và chiếc nón lá mà các cô gái gốc Việt mang
trong lễ hội là hình ảnh cực kỳ ấn tượng.
Cái nếp sinh hoạt tôn vinh
sự đoàn kết, sự gắn kết các giá trị cộng đồng của cả 3 làng có lẽ đã tạo được
một cộng đồng người Kinh mạnh mẽ trong rất nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số
tại Trung Quốc.
Cứ hễ làng nào có việc, là
người làng khác sang “chi viện”. Hình ảnh hàng chục cô gái duyên dáng vận áo
dài, nón lá đi trong lễ hội, đều là những cô gái đẹp nhất của cả 3 làng người
Việt.
3. Văn hoá đầy đặn. Nhưng
một sức mạnh không thể thiếu để cộng đồng người Kinh gốc Việt tại Trung Quốc
được vinh danh, đó là kinh tế. Được vinh danh là cộng đồng dân tộc thiểu số
có nền kinh tế phát triển nhất ở Trung Quốc, người Kinh Tam Đảo có lợi thế
bắt nguồn từ việc là cầu nối giữa thị trường Việt Nam và Trung Quốc.
Không khó để bắt gặp những
chiếc xe hạng sang trên đất 3 làng. Đưa chúng tôi đi về hội làng Vũ Đầu trên
chiếc Lexus NX 200t, Cường không khỏi nhận được ánh mắt ái mộ của nhiều du
khách đến từ các vùng khác. Đây là chiếc xe hạng sang đời mới nhất, và đặc
biệt, nó được cầm lái bởi một gương mặt còn rất trẻ.
Với vị trí chiến lược là
chiếc cầu nối giao thương giữa Việt Nam và Trung Quốc, cộng thêm khả năng giữ
gìn ngôn ngữ tiếng Việt mạnh mẽ trong nội tại cộng đồng, đã khiến cho người
dân 3 làng có một lợi thế không thể sánh nổi khi các thương nhân Việt Nam và
Trung Quốc tiến hành mở mang kinh doanh biên mậu.
Hơn 20 năm mở cửa biên mậu
đã giúp cho 3 làng, đặc biệt là làng Vạn Vỹ, tạo nên nhiều đại gia trên đất
Đông Hưng, thậm chí ở tầm cả trấn Phòng Thành. Nhiều khách sạn cao tầng,
nhiều khu chợ, nhiều xưởng đóng tàu đi biển lớn, nhiều toà nhà lớn trên địa
bàn Đông Hưng thuộc về sở hữu của người 3 làng Việt.
Tư duy kinh tế năng động,
cộng thêm khoản tư bản tích luỹ được từ hoạt động kinh doanh biên mậu… đã
khiến cho vùng đất 3 làng trở thành một khu dân cư sầm uất. Đường vào 3 làng,
đặc biệt là vào Vạn Vỹ đã được đổ bê tông 4 làn xe rộng thênh thang.
Những mảnh đất ven biển vốn
xưa nay chủ yếu làm nghề nước mắm, nuôi vịt… đã dần được thay thế bằng các dự
án khách sạn, resort du lịch. Bãi biển Vạn Vỹ đã được kè bê tông gần chục cây
số, cứ mỗi cuối tuần đón hàng vạn khách du lịch từ các huyện sâu trong nội
địa…
Giới trẻ của 3 làng Sơn
Tâm, Vạn Vỹ, Vũ Đầu cũng năng động không kém. Để nâng cao khả năng ngôn ngữ,
nhiều người đã tình nguyện đăng ký học Đại học tại Việt Nam, sau đó đều trở
thành những cánh tay đắc lực cho các ông chủ lớn từ sâu trong Đại lục muốn
khai phá thông thương thị trường Việt Nam.
Bản thân Cường, đại diện
cho một lớp trẻ năng động, sau khi tốt nghiệp cấp 3, đã sang Đại học Văn hoá
tại Hà Nội để học chuyên ngành tiếng Việt. Hiện tại, Cường đang làm thuê cho
một ông chủ đến từ Sơn Đông, chuyên buôn bán xe vận tải hạng nặng sang thị
trường Việt Nam.
Với lợi thế gần như tuyệt
đối, Cường hiện tại liên tục chu du khắp các tỉnh thành của Việt Nam để tìm
kiếm đại lý.
Không những thế, chàng
thanh niên gốc Việt này còn đảm nhậm vai trò phiên dịch trong những thương vụ
lớn. Có nhà riêng, có xe con hạng sang, Cường là đại diện cho một lớp thanh
niên mới của đất 3 làng.
4. Ấn tượng nhất, cảm động
nhất, có lẽ là cảm giác sải từng bước dưới bóng rợp của cây đa cổ thụ 200 năm
tuổi trước đình làng Vạn Vỹ. Trước mặt cây đa là một tấm biển đá, khắc 5 chữ
lớn “Cây tương tư Nam Quốc”.
Phía dưới 5 chữ lớn, là bài
thơ, với nội dung như lời tổ huấn răn dạy các thế hệ sau không được quên
nguồi cội dân tộc.
Đình làng Việt tại 3 thôn
Vũ Đầu, Sơn Tâm, Vạn Vỹ vẫn giữ được những nét đặc trưng của đình làng Việt:
trong những ngày bình thường, đây là nơi sinh hoạt cộng đồng của trẻ em và
người già của cả thôn.
Có lẽ, những tập tục làng
xã nghiêm cẩn, được những người lớn tuổi nghiêm khắc thực thi, đã giúp cho 3
làng, qua đằng đẵng hơn 5 thế kỷ, vẫn giữ được những nét truyền thống Việt,
mà e rằng, nhiều làng trên đất Việt hiện nay liệu có còn.
Xin đơn cử, phong tục góp
đinh. Theo lệ làng, cứ luân phiên từng năm, dù sinh sống ở bất cứ nơi nào,
nhưng làng có hội là phải cử một “đinh” để khiêng kiệu.
Tôi giật mình khi bắt gặp
Lưu Văn Minh trong hội làng Vũ Đầu. Minh tốt nghiệp Đại học dân tộc Quảng Tây
và học 1 năm đại học ở Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Việt Nam,
đang sinh sống và làm việc ở thị trấn Đông Hưng…
Thấy khách, Minh cười gãi
đầu thanh minh: làng có hội, dù ở đâu cũng phải về từ đêm hôm trước, để có
mặt ở đình làng từ sáng sớm khiêng kiệu.
Và còn phải kể đến những
người thầm lặng như ông Nguyễn Thành Hào, thầy cúng gia truyền 3 đời ở thôn
Sơn Tâm. Ông Hào đã dành thời gian gần 20 năm để du khảo khắp Việt Nam và
Trung Quốc, để sưu tầm những bài cúng, những điển tích Hán Nôm… đối chiếu, so
sánh, tu chỉnh để những bài văn cúng ở Sơn Tâm vẫn giữ gìn được những nét
nguyên thuỷ như ở quê nhà.
Nhìn vị thương gia gốc Việt
trong tương lai đang đỏ mặt tía tai gò lưng khiêng kiệu, chợt thấy thầm cảm
ơn những bậc tiền nhân, đã nhìn xa trông rộng, đã trồng cây si, đã khắc lời
tổ huấn đặt tên “Cây tương tư Nam Quốc”, như một bài học nhẹ nhàng thấm đẫm
qua năm tháng, mà không thể nào quên.
|