Chủ Nhật, 21 tháng 4, 2019

SUY NGẪM VỀ BỆNH UNG THƯ

Bài đăng trong kỷ yếu Hội nghị KH toàn quốc lần 1 tháng 12/2016 về "Nghiên cứu và ứng dụng khả năng đặc biệt của con người" do Viện NC&ƯD tiềm năng con người chủ trì cùng 12 đơn vị NCKH tương đồng.

SUY NGẪM VỀ BỆNH UNG THƯ
Đoàn Thanh Hương[1]

Lời ban biên tập: Nguyên nhân ung thư, bản chất và hình thái cũng như  cách chữa ung thư đều vô cùng  phong phú. Ở đây Ban biên tập trân trọng giới thiệu đến độc giả quan niệm riêng của tác giả - là người có kinh nghiệm bản thân và đã giúp được một số người trong việc chống chọi lại căn bệnh ung thư và phục hồi sức khỏe trở lại –  về nguyên nhân và cách điều trị, phòng chống lại căn bệnh quái ác này!”.  
          Nguyên nhân bệnh ung thư do tích tụ độc tố và năng lượng xấu, từ ăn uống, môi trường ô nhiễm. Tác nhân xấu gọi chung là ô trược, ở dạng hữu hình (phân tử hóa học) và vô hình (sóng năng lượng xấu, tà khí, âm khí, vong âm, nghiêp lực). Đặc biệt tác hại của sóng wifi, phóng xạ, tác động tới trung tâm não Tuyến Yên, làm kém kiểm soát cơ thể, rối loạn chuyển hóa nội tiết, đặc biệt là sự bế tắc kinh mạch. 
         Đông Y có quan niệm rõ ràng về vai trò vận chuyển Năng lượng của kinh mạch và máu huyết. Một tế bào hoạt động tốt khi tiếp nhận đầy đủ năng lượng từ hai kênh năng lượng: kinh mạch và mạch máu. Khu vực nào  nhiều ô trược độc tố làm kinh mạch bế tắc 100%, buộc các tế bào phải thay đổi cơ chế tăng thu hút dinh dưỡng từ mạch máu. Tế bào lành tính đã thay đổi cơ chế thành ác tính. Tế bào ác tinh liên tục sản sinh khí độc phóng đi khắp cơ thể, lan tỏa như chùm rễ cây, tạo tiếp ung thư thứ phát (di căn), kinh mạch bít dần. Đầu tiên người mệt mỏi kém linh hoạt, có nốt chai da ở gốc ngón tay út. Bệnh phát triền âm thầm từ 5-10 năm không đau nhức. Khi ung thư đã thành một khối 2mm đủ chèn ép huyết mạch, thấy đau và sút cân là kinh mạch đã nghẽn tắc rộng, thiếu năng lượng sinh ra đau nhức và trì trệ. Kinh mạch bắt đầu bít tắc rất nhanh theo cấp số nhân dẫn tới cái chết trong vòng 2-3 năm. Chữa ung thư mà không quan tâm phục hồi kinh mạch, là sai lầm lớn nhất. Hệ kinh mạch là nguồn mạch sống quan trọng nhất, nơi phân phối năng lượng quyết định tình trạng sức khỏe, tinh thần và tính mạng. Kinh mạch giống như dòng sông tưới nước, nếu khô cạn hoặc nhiễm độc, thì tất cả cây cối héo tàn. Nếu khơi nguồn dồi dào, gạn đục khơi trong, thì cây cối tức khắc tươi tốt.   
       Hệ kinh mạch là cầu nối với nguồn năng lượng siêu nhiên “Khí Trời”, sinh khí, để nuôi dưỡng hoạt động lục phủ ngũ tạng thực hiện chức năng hấp thụ thức ăn, hô hấp, thần kinh, tim mạch… Kinh mạch nghẽn tắc thiếu cung cấp năng lượng thì đau nhức hoại tử tế bào không còn hoạt động được, dù ăn nhiều chất bổ cũng không tiêu thụ được. Từ ngàn xưa Đông Y đã kết luận về kinh mạch: “ Thông thì không đau, mà đau là không thông”. (Thông bất thống, thống bất thông). 
         Bác sĩ  Tây y  không quan tâm hệ kinh mạch, tức là bỏ qua cái gốc năng lượng tạo nên sự sống của tế bào.  Vì lý do kinh mạch quá bí ẩn, bác sĩ không soi xét thấy, không biết nó. Tây y dùng thuốc chữa ngọn bệnh khi đã phát ra, chữa khỏi bệnh này, lại phát bệnh khác. Vì vậy y tế ngày càng phát triển cũng không bao giờ hết bệnh nan y. Chỉ khi nào làm chủ được hệ thống kinh mạch mới đẩy lùi bệnh nan y và ung thư.
         Đặc điểm bệnh ung thư là sản sinh rất nhiều khí độc làm bít tắc kinh mạch, suy kiệt năng lượng dẫn đến cái chết nhanh chóng. Xương tủy não là nơi tàng chứa ô trược nhiều nhất, không có thuốc điều trị được. Không phục hồi kinh mạch, thì tỷ lệ sống rất thấp. Những bệnh thuộc kinh mạch quan trọng hàng đầu như kinh Phế (Phổi), kinh Can (gan), kinh Trường sinh (Tuyến Yên), chỉ điều trị bằng hóa trị, tia xạ, phẫu thuật, nút mạch máu… thì tỷ lệ sống sót của ung thư phổi gan di căn, sau 5 năm là 2% - 4%(Mỹ). Ung thư não khó hơn. Mặc dù người bệnh rất tốn kém tiền điều trị, nhưng không ai chịu trách nhiệm về sự chết chóc này. Tất cả gia đình người bệnh cũng tiêu điều theo căn bệnh.       
           Nếu đẩy mạnh việc thanh lọc ô trược độc tố, giải quyết được nguyên nhân dẫn tới ung thư, phục hồi kinh mạch cung cấp đủ năng lượng, và ăn uống thực dưỡng sạch, sẽ tăng được tuổi thọ sức đề kháng, đủ thời gian tiêu diệt khối u.
         Một bộ tộc ở điểm cực bắc của Ấn Độ sở hữu bí quyết sống thọ, không có người mắc ung thư, do dùng thực phẩm không hóa chất, môi trường tự nhiên trong lành, vận động nhiều và hít thở xua tan căng thẳng giúp tránh xa các căn bệnh thời đại. Giữ được nếp sống sạch đã khó, việc thanh lọc chất độc và khí độc, còn khó hơn nữa, đòi hỏi phương pháp sắc bén và người luyện tập có ý chí cao
           Không có viên thuốc nào thanh lọc hết ô trược độc tố. Thực phẩm chức năng trung hòa một phần độc tố, không ngăn chặn được ô trược, tà khí, âm khí. Quảng cáo thải độc trong 2-3 ngày không thể chữa được bệnh. 
           Phương pháp luyện tập Vô thức  đã khai mở hệ thống thải độc tự nhiên mạnh mẽ nhất, để kịp thời điều chỉnh kinh mạch trong thời gian nhanh nhất, là việc Khai mở Hà Đào Thành, xoáy hút đào thải tất cả ô trược độc tố, và rót năng lượng sạch vào nơi có bệnh. Cùng với phục hồi tuyến Yên, và sự hỗ trợ của Đá Tecstits khử tà khí, ăn bột Địa long tăng sinh lực, ăn uống sạch, dùng dược liệu thải độc… Tất cả ưu việt nhất của Thiên nhiên kết hợp lại, mới có thể thực hiện được mơ ước trả lại môi trường bình ổn cho tế bào.  Luyện tập  giải ô trược tối đa thì khối u ngừng phát triển, teo lại.  Mỗi ngày tập 4 buổi, mỗi buổi ít nhất 2h. Dành nhiều thời gian giải trược trọng điểm kinh mạch bệnh và  nơi xung yếu. Dùng đá khử tà khí rất quan trọng, dùng nhiều hơn bệnh khác.
        Cần  ăn uống sạch và môi trường sạch, không dùng máy di động.  Thức ăn đối với bệnh ung thư rất quan trọng. Nếu ăn tạp sẽ không chữa được bệnh, tốt nhất ăn kiêng những loại đạm khó tiêu và thực phẩm có hóa chất: thịt, cá, trứng, sữa, phomai, đường kính và các sản phẩm có đường, bánh kẹo, nước ngọt, nước có ga, rượu bia, hương liệu phụ gia, rau muống, vì làm tăng khối u. Ăn ngũ cốc rau quả sạch tự nhiên, giống như ăn thực dưỡng, nhưng đủ chất đạm an toàn cho não hoạt động tốt. Bột Địa long đủ chất đạm an toàn, cơ thể hấp thụ rất nhanh, không bị tồn đọng như các loại đạm khác, giúp tăng sức đề kháng chống lại bệnh, ung thư dùng được.
       Dùng dược liệu hỗ trợ : Tỏi đen, tinh nghệ Nano Curcumin là những sản phẩm đã được kết luận có tác dụng ngăn ngừa ung thư. Dùng cây Nha đam (Lô hội) tươi nguyên chất, là cây dược liệu quý, có chất chống oxy hóa mạnh. Dùng si rô Nha đam hiệu quả nhất ở thời điểm sau khi tập Hệ B. Uống siro Nha đam mật ong và tinh gừng     
        Một số trường hợp phẫu thuật cắt bỏ, hoặc ghép mới, nhưng khối u vẫn mọc lại, do nghiệp oán quần tụ tiếp tục tạo khối u mới. Có thể chữa được bằng cách giải hết tà khí, âm vong. Vì vậy phải mở rộng kiến thức tâm linh có liên quan đến bệnh ung thư. Nếu phát hiện sớm có thể phẫu thuật khối u cắt nguồn phát ô trược, rồi luyện tập Vô thức loại bỏ tận gốc ô trược độc tố sẽ không tái phát bệnh. Không cần dùng hóa chất độc, phóng xạ  có thể hủy diệt sức khỏe.
          Con người sẽ hết sợ hãi bệnh tật nếu điều chỉnh được não bộ và kinh mạch hoạt động tốt hơn. Thay vì hoạt động của 4%  - 5% não bộ, là sức mạnh khổng lồ của 50% não bộ,  mới bật lên sức đề kháng chống chọi lại bệnh tật, hiệu quả có thể mạnh hơn thuốc, chữa khỏi một số bệnh nan y từng đeo đẳng cả đời. Về nguyên tắc căn bản giải hết ô trược độc tố, cung cấp năng lượng Prana, và ăn thực dưỡng sạch, sẽ hết di căn ung thư. Tỷ lệ thành công tùy thuộc ý chí quyết tâm luyện tập, yếu tố môi trường, ăn uống. Người giàu hay nghèo cũng có cơ hội chiến thắng ung thư bằng giải pháp thiên nhiên. Cơ hội sống nhiều hơn, và gia đình không bị hệ lụy.



[1] Chủ nhiệm bộ môn Năng lượng sinh học

CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA PHƯƠNG PHÁP CHỮA BỆNH CỦA NHỮNG NGƯỜI CÓ KHẢ NĂNG ĐẶC BIỆT

Bài đăng trong kỷ yếu Hội nghị khoa học toàn quốc lần 1 tháng 12/2016 về "Nghiên cứu và ứng dụng khả năng đặc biệt của con người  do Viện NC&ƯD tiềm năng con người chủ trì cùng 12 đơn vị NKH tương đồng.

CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA PHƯƠNG PHÁP
CHỮA BỆNH CỦA NHỮNG NGƯỜI CÓ KHẢ NĂNG ĐẶC BIỆT
Vũ Đức Huynh[1]
Những phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc nói chung đã được các dân tộc Á Châu áp dụng từ hàng nghìn năm nay. Những phương pháp này được phổ biến rộng rãi nhất ở Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam v. v., là một trong những phương pháp chữa bệnh của nền y học phương Đông.
Từ nửa cuối thế kỷ XX, các phương hướng chữa bệnh không dùng thuốc của phương Đông đã được truyền bá sang các lục địa Âu, Mỹ, Úc, một số nước Trung Đông, Bắc Phi và đã được tiếp nhận áp dụng rộng rãi.
Các phương pháp khí công, yoga và nhiều phương pháp dưỡng sinh khác…đã được phục hồi, phát triển và ứng dụng trong việc nâng cao sức khỏe, đẩy lùi bệnh tật ở rất nhiều địa phương và ngày càng được nhiều người quan tâm. Phương pháp châm cứu (L’acupuncture et L’ignipuncture), day, bấm, xoa sát các huyệt đạo ngày càng được bổ sung và phát triển thêm nhiều thủ thuật như điện châm, thuỷ châm... đáp ứng nhiều bệnh chứng đạt hiệu quả chữa trị nhanh và kinh tế.
Trong mấy chục năm qua tại Việt Nam đã xuất hiện nhiều người có khả năng đặc biệt trong việc chẩn đoán và chữa bệnh không dùng thuốc. Họ đã có nhiều đóng góp cho việc chữa bệnh, nâng cao sức khỏe cộng đồng. Gần chục năm qua Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng của con người đã khảo sát, thống kê, nghiên cứu một số người có khả năng đặc biệt trong việc chữa bệnh và đã thu dược một số kết quả. Để tìm hiểu và đi sâu vào bản chất khoa học, Trung tâm tổ chức đề tài “Nghiên cứu cơ sở khoa học và cơ chế tác động trong các phương pháp chữa bệnh của những người có khả năng đặc biệt”. Đây là một ý tưởng và việc làm mang tính thời sự rất hấp dẫn, không chỉ đối với các nhà khoa học mà còn đối với các nhà nghiên cứu và đông đảo dân chúng quan tâm.
Để góp phần làm phong phú thêm các ý kiến về vấn đề đã nêu, trong báo cáo này, chúng tôi xin đề cập chủ yếu về cơ sở khoa học của phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc bằng năng lượng sinh học của những người có khả năng đặc biệt và ai là những người có thể có khả năng chữa trị bằng phương pháp này.
Chúng tôi xin đề cập sáu vấn đề cụ thể như sau:
1. Khái niệm chữa bệnh không dùng thuốc bằng năng lượng sinh học.
2. Cơ sở khoa học của phương pháp này.
3. Điều kiện để có thể chữa bệnh bằng phương pháp năng lượng sinh học.
4. Nguyên lý chữa bệnh bằng năng lượng sinh học của những người có khả năng đặc biệt
5. Thực tế và triển vọng trong tương lai của phương pháp chữa bệnh bằng năng lượng sinh học
6. Một số đề xuất.

1. Khái niệm chữa bệnh không dùng thuốc bằng năng lượng sinh học
Chữa bệnh không dùng thuốc bằng năng lượng sinh học là một phương pháp mà con người sử dụng năng lượng sinh học của chính bản thân hoặc năng lượng sinh học vô hình tác dụng trực tiếp vào người bị bệnh hoặc qua một vật trung gian gián tiếp đưa năng lượng vào người bệnh để tác động vào bộ phận nào đó cần chữa trị trong cơ thể của người bệnh.
Qua khái niệm trên cho thấy, muốn chữa bệnh bằng phương pháp này, người chữa bệnh phải có nguồn năng lượng sinh học đủ lớn hoặc có khả năng thu được nguồn năng lượng sinh học cần thiết cho việc chữa trị.
Người chữa bệnh truyền năng lượng theo hai phương cách:
- Người chữa bệnh tiếp xúc với người bị bệnh và dùng các giác quan của bản thân để có thể truyền nguồn năng lượng sinh học vô hình (inrrisible), vô ảnh (amorphous) vào người bệnh.
- Nếu không thể hoặc không cần thiết phải tiếp xúc với bệnh nhân thì người chữa bệnh có thể sử dụng một số phương tiện hỗ trợ trung gian để “gửi” năng lượng của mình (hoặc mình thu được) tới người bệnh mà vẫn đạt các yêu cầu chữa trị.
Những phương tiện hỗ trợ cho phương pháp này là rất phong phú và tùy thuộc sở trường, khả năng năng lượng của người chữa bệnh, thậm chí còn phải phù hợp với ý niệm tâm linh của người bệnh (spiritual idea), của người thực hiện chữa trị.
Có thể dẫn ra đây một số phương tiện trung gian mà người chữa bệnh bằng phương pháp này thường dùng như: nước, hương, điện thoại (cố định, di động), một tờ giấy có các ký tự đặc biệt hay chữ ký của người chữa, qua tiếng hát, qua câu chuyện trao đổi, kể, bùa, chú, đất, đá, cầu cúng, v. v.
Giải thích phương cách này ta có thể hình dung về cách phát trả năng lượng mà mọi người thường thấy của cục đá vôi nung chưa tôi. Hòn đá vôi đem nung là quá trình truyền năng lượng có từ lửa, củi, than đã truyền gửi tích tụ vào cục đá vôi trong khi nung. Cục đá vôi đã được nung khi gặp nước sẽ trả lại (giải tỏa) nguồn năng lượng mà nó đã được tích tụ làm nóng sôi cả một lượng nước.
Các nhà chữa bệnh bằng phương pháp năng lượng đã sử dụng phương cách gián tiếp bằng việc “gửi” năng lượng vào các vật trung gian để truyền vào người bệnh qua đường: uống nước, ngửi, nghe, sờ, nắm, hay mắt nhìn (đốt giấy có ký tự, bùa, chú...).
Qua ví dụ về cục vôi được nung và đem tôi đã giúp làm sáng tỏ rằng phương cách truyền năng lượng qua vật trung gian là có cơ sở khoa học, hoàn toàn không huyễn hoặc, không phi lý. Mọi vật thể đều có tàng chứa và có thể tích tụ thêm nguồn năng lượng xanh - năng lượng sinh học nếu được truyền vào và sẽ phát trả khi có điều kiện nào đó.
Tuy nhiên phải mạnh dạn coi phương cách này có mang ý nghĩa tâm linh, thiên về khoa học tâm linh để nhận thức sự việc, hiện tượng mà không xem xét thuần túy bằng khoa học thực nghiệm hoàn toàn duy vật.
Việc áp dụng phương cách chữa trị gián tiếp đã được nhiều người chứng kiến hoặc đã từng tự trải nghiệm. Đó là một thực tế khó có thể phủ nhận.
Chúng ta biết rằng mọi dạng thức thực thể sống hay vật thể (a formulate of the reality or of the substance) đều có hay tàng chứa một nguồn năng lượng hoặc vật lý, hoặc sinh học. Chúng có thể thu thêm và phát trả nguồn năng lượng phù hợp. Điều này đã được thuyết lượng tử của nhà bác học vật lý Planck đề cập đến.
Các nhà chữa bệnh bằng năng lượngsinh học được mệnh danh là “Nhà ngoại cảm” đã truyền gián tiếp năng lượng vào các vật trung gian để gửi tới chữa trị cho các người bệnh chính là đã lợi dụng khả năng hấp thụ và phát trả năng lượng của các trung gian đó.

2. Cơ sở khoa học của phương pháp chữa bệnh bằng năng lượng sinh học của những người có khả năng đặc biệt
Phương pháp chữa bệnh bằng năng lượng có cơ sở khoa học vững chắc, không phải là huyễn hoặc, mơ hồ. Đó là:
- Cơ thể con người có cơ quan thu, phát năng lượng dưới dạng sóng mang thông tin và dạng hạt mang năng lượng.
- Con người có năng lượng sinh học.
- Năng lượng sinh học có công năng.
Ba yếu tố này đã được nhiều bộ môn khoa học công nhận và chứng minh. Chính cấu trúc cơ thể của con người và những loại năng lượng mà con người luôn có và có thể chiếm giữ đã tạo nên khả năng chữa bệnh bằng năng lượng sinh học. Nhờ khả năng có thể chiếm giữ mà mức độ năng lượng ở mỗi người sở hữu là rất khác nhau và việc sử dụng nó nhiều ít khác nhau trong quá trình sống.
Cơ sở khoa học về mặt cấu trúc của cơ thể được làm rõ như sau:
Mỗi người sinh ra đầu tiên đều có 13 “Thông thiên đại huyệt” (The big sensing point to connect with universe) mà trong Đông y thường gọi các đại huyệt: Thóp, Bách hội, Đại trùy, Tâm du, Thận du, Mệnh môn, Trường cường, Hội âm, Trung cực, Quang nguyên, Đan điền, Đản trung, Ngạc Trung, nằm trên hai mạch Nhâm âm và Đốc dương. Theo quan niệm hấp thụ năng lượng, 13 đại huyệt này có chức năng hấp thu thụ động các nguồn Thiên năng (universe energy) và Địa năng (earth energy). Một số chuyên ngành gọi đó là các “luân xa” (charka). Chức năng thực sự của các “Thông thiên đại huyệt” là hấp thu thụ động nguồn năng lượng tinh khiết từ vũ trụ nhờ sự chênh lệch lớn của loại năng lượng này ở bên trong cơ thể con người và năng lượng ở  trong không gian, tạo ra các hút xoáy vòng theo chiều kim đồng hồ từ bên ngoài xoáy vào bên trong cơ thể. (Vì vậy có sự liên hệ “luân xa” bánh xe quay) của nhà Cảm xạ học đặt tên theo thứ tự 1, 2, 3, 4, 5, 7, 6 từ Hội âm đến đại huyệt Ngạc trung v.v...
Nguồn Thiên năng và Địa năng tàng chứa trong các dòng hạt, các loại sóng, tia v.v... được các “Thông thiên đại huyệt” hấp thụ để cho các hoạt động và sự phát triển không ngừng của trí tuệ (L’esprit). Nguồn năng lượng cho không này là vô tận, tràn ngập trong bao la vũ trụ. Nguồn năng lượng thứ ba mà con người thu nhận từ sinh thực và hít thở. Đó là nguồn năng lượng xanh, tàng chứa trong không khí chủ yếu là dưỡng khí, trong nước uống, trong các thực phẩm động, thực vật và các chất khoáng - vi lượng cần thiết. Nguồn năng lượng xanh này cần cho cơ thể vật lý phát triển và đáp ứng mọi hoạt động sống của con người mang tính cơ bắp.
Ngoài hấp thu thụ động các nguồn năng lượng sinh học tự do (free bioenergy) có chọn lọc, con người có thể bằng một số phương pháp tu tập để chủ động thu nhận năng lượng tự do trong vũ trụ và tích trữ nó trong cơ thể hoặc để sử dụng khi có nhu cầu ngay sau đó.
Bà Barbara Ann Breman, một nhà khoa học, tâm lý trị liệu thực hành chữa trị tâm linh nổi tiếng ở Hoa Kỳ đã từng khẳng định: “... Ngoài thân vật lý con người còn có ít nhất 7 cơ thể năng lượng không nhìn thấy bằng mắt thường. Và tất cả chúng thâm nhập lẫn nhau trong một khoảng không gian vào cùng một thời điểm... Mỗi cơ thể được kết hợp với một luân xa chính và một số luân xa khác...[2] (theo Trần Văn Đình, Vũ trụ và con người dưới góc độ khoa học Tâm linh trang 59).
Những người có khả năng đặc biệt chữa bệnh bằng phương cách phát năng lượng thường gọi là các nhà “ngoại cảm”, các nhà “cảm xạ học” là có thật. Họ cũng như mọi người khi trưởng thành đều còn 12 “Thông thiên đại huyệt” luôn thông với bên ngoài (Thóp đã đóng lại lúc 18 đến 24 tháng tuổi) để thường xuyên hấp thu thụ động nguồn năng lượng từ vũ trụ. Song họ còn đồng thời sử dụng các phương pháp thu nhận chủ động nguồn năng lượng này.
Hầu hết các nhà ngoại cảm đều có nguồn năng lượng sinh học mạnh nhờ hai yếu tố căn bản. Đó là: bẩm sinh họ đã có các “Thông thiên đại huyệt” hoàn hảo, phát triển hoàn thiện thêm trong quá trình lớn lên. Đến một độ tuổi nhất định nào đó, họ có nguồn năng lượng hấp thu được đủ mạnh và phát huy được hiệu lực. Trường hợp khác, nhờ những đột biến nào đó của cơ thể do bị các tác động vật lý hay chấn động tinh thần mạnh nào đó gây ra sự thông thoát và rộng mở các “Thông thiên đại huyệt” đã giúp cho việc hấp thụ năng lượng tự do từ vũ trụ của họ tăng đột biến, nên những người này tự nhiên có một nguồn năng lượng lớn và mạnh.
Một số nhà ngoại cảm chủ động thu nhận năng lượng tinh từ vũ trụ bằng các phương pháp riêng hay tình cờ phát hiện ra, hoặc tình cờ được nhận sự ưu ái của một Đấng siêu linh (Oficical standings of the spreme) nào đó của thế giới siêu thực (surrealist worlt) trong Bao la vũ trụ.
Con người có khả năng đặc biệt phát năng lượng chữa bệnh bằng một số phương cách sau:
- Tiếp xúc trực tiếp trên cơ thể người bệnh qua một số giác quan súc giác (tay), thị giác, khứu giác…
- Chữa bệnh từ xa (bằng cách truyền phát năng lượng, có thể chỉ là vài cm đến hàng ngàn Km) qua cửa phát sóng (the big sensing point of were) - “Thông thiên đại huyệt” hay “Thiên nhãn”, “Thấu nhãn”, “Con mắt thứ ba”, “Luân xa 6”, “Huyệt Ngạc trung” v.v... cách gọi khoa học ngày nay là “Thị giác cao cấp”
- Thông qua các vật truyền dẫn trung gian
Song muốn chữa được bệnh bằng năng lượng cần có điều kiện của cả chủ thể và khách thể, và không phải chủ thể có thể thực hiện tùy ý, bất kỳ lúc nào và cho bất kỳ ai, bất kỳ bệnh gì.
3. Điều kiện để có thể chữa bệnh bằng năng lượng sinh học
    3.1. Điều kiện của các chủ thể - người thực hành chữa bệnh.
Những người có khả năng đặc biệt trong việc chữa bênh cần có một số điều kiện nhất định mới có thể chữa trị được bệnh bằng phương pháp truyền năng lượng. Có thể xếp những người có khả năng đặc biệt vào ba dạng sau:
- Có người thu được và phát được một dạng sóng với một tần số bước sóng nhất định.
- Có người có thể thu và phát được một dạng sóng với dải tần số bước sóng rộng đa chiều đa phương.
- Có người có thể thu và phát được một số sóng sinh học với các tần số bước sóng khác nhau.
Chỉ có những người có khả năng đặc biệt thuộc hai dạng cuối mới có thể dùng phương pháp chữa bệnh bằng năng lượng sinh học mà thôi.
Những người này còn cần có nguồn năng lượng đủ lớn, đủ mạnh đã tích tụ được để phát truyền.
 Họ phải biết được bệnh cảnh; phân biệt nguyên nhân gây bệnh. Đó là: Thân bệnh, Nghiệp bệnh hay Mệnh bệnh.
Không phải có năng lượng đủ lớn, đủ mạnh là có thể chữa được bách bệnh. Nó lệ thuộc rất nhiều vào khách thể, vào ngoại cảnh, vào xã hội.
Sóng sinh học (bioenergy of were) cũng tương tự như các sóng vật lý, có công lực trong một số lĩnh vực nhất định (ví như sóng viba có thể đốt nóng hay đâm suyên được qua một số vật liệu như: đất, sứ, một vài loại thủy tinh nhưng lại vô tác dụng đối với loại nhựa platstique.)
Sóng sinh học được phát truyền vào người bệnh phải phù hợp tần số bước sóng, phù hợp với sự tiếp nhận của màn cảm sóng (sensor were) của người bệnh mới có thể được hấp thụ hoặc vào qua được các “Thông thiên đại huyệt”, giống như cách thu phát radio: tần số của nguồn phát và máy thu phải trùng hợp. Việc phát truyền sóng sinh học này  còn cần hợp “Thời sinh học” của con người mới tạo ra sức mạnh nhờ có sự liên thông giữa một số huyệt đạo vào một cơ quan nội tạng nhất định trong một thời điểm nhất định.
Để giải thích rõ hiện tượng trên, xin nêu ví dụ. Nếu năng lượng vào qua màn cảm sóng, năng lượng sẽ qua Thần thức (divine; L’âme) để giúp điều chỉnh lại những rối loại của hệ thống thần kinh hoặc một kinh lạc nào đó trong cơ thể. Năng lượng truyền qua một số huyệt đạo liên quan đến bì (da, lông), vị (dạ dày), phế (phổi) giúp để chữa trị phổi hay chữa trị dạ dày như cách nêu trên (ví dụ bệnh hô hấp thuộc tạng phế có các huyệt đạo liên quan đến bì, vị vào một thời gian nhất định 8 đến 10 giờ sáng). Sau khoảng thời gian đó, sự liên thông không còn, tác dụng cộng hưởng của các huyệt đạo không có hiệu quả, việc sử dụng các huyệt đạo chữa bệnh sẽ bị hạn chế nhiều.
Nhận thức đúng bệnh cảnh sẽ là điều tiên quyết để chữa bệnh bằng năng lượng có kết quả. Và hơn nữa, để biết người bệnh này có thể chữa được; người khác lại không chữa được; bệnh này chữa được, bệnh khác thì không. Đó là tính khoa học trong phương pháp chữa bệnh và nhà ngoại cảm như vậy mới là nhà ngoại cảm uyên thâm có tâm, có đức. Việc chữa bệnh bằng phương pháp này không thể tùy tiện.
Mỗi loại bệnh và mỗi bệnh cảnh khác nhau cần được áp dụng phương cách tiếp cận để chữa trị khác nhau. Người chữa trực diện tiếp xúc trực tiếp bệnh nhân hay qua một trung gian (như đã nói) tùy thuộc vào kỹ năng và sở trường của nhà ngoại cảm; tùy thuộc vào điều kiện môi trường, tình trạng và hoàn cảnh của người bệnh.
Người có khả năng đặc biệt trong chữa bệnh không dùng thuốc cũng có một thời hạn nhất định bởi nguồn năng lượng của họ cũng có giới hạn. Phương pháp tự hấp thụ chủ động lại phụ thuộc vào cơ thể. Nhà ngoại cảm cũng đến ngày lão suy hay vì một sự cố vật lý nào đó tác động làm mất hết khả năng huy động năng lượng. Và theo quan niệm tâm linh rằng một ai đó do tâm đức kém nên “bị” cắt nguồn trợ giúp của Đấng siêu linh... Họ không còn khả năng “ngoại cảm”.

3.2. Điều kiện đối với khách thể - người bệnh
Với quan điểm chữa bệnh không dùng thuốc bằng năng lượng của những người có khả năng đặc biệt, bệnh cảnh của khách thể là yếu tố quyết định chữa hay không; phương cách áp dụng cần phù hợp và người bệnh có thể tiếp nhận được hay không?
Người mắc “Thân bệnh” là những bệnh thực, là các bệnh “thực chứng” trong nội tạng cơ thể rõ ràng, cụ thể. Người chữa phải tự đánh giá năng lực của bản thân và qua chẩn trị để quyết định. Không phải năng lượng sinh học có thể chữa trị cho mọi bệnh nhất là các bệnh nan y.
 Người bị “Nghiệp bệnh” - bệnh do nghiệp chướng nhân quả (bệnh bị ám) tạo nên; dân gian thường gọi “bị ma làm, quỷ hại...” hay tâm linh bất định, tâm thần bất an. Theo quan niệm tâm linh, người có khả năng đặc biệt phải có “bản lĩnh” thực sự mới hy vọng chữa trị bằng các liệu pháp phù hợp để chữa khỏi bệnh.
Những người bệnh thuộc “Mệnh bệnh” là bệnh của quy luật tự nhiên “Sinh lão bệnh tử”.  Người gần cõi chết, lục phủ ngũ tạng già cỗi, lão suy, thầy giỏi mấy, năng lực cao siêu đến mấy cũng không thể cải lão hoàn đồng, cải tử hoàn sinh được v.v...
Nghiệp bệnh và Mệnh bệnh mang đậm sắc thái tâm linh, nhà ngoại cảm có bản lĩnh có thể chữa trị bằng các biện pháp tâm linh. Đối với một số bệnh nào đó do “nghiệp báo” gây nên, một số nhà ngoại cảm bằng những kiến thức đã có được, họ cũng có thể chữa khỏi. 

4. Nguyên lý chữa bệnh bằng năng lượng sinh học của những người có khả năng đặc biệt
Để chữa bệnh, nhà ngoại cảm phát truyền năng lượng qua sóng trực tiếp hoặc gửi truyền năng lượng vào một trung gian để người bệnh hấp thụ. Nguồn năng lượng luôn tàng ẩn một công lực có thể điều chuyển các hoạt động đang rối loạn trong cơ thể người bệnh, hoặc công phá trực tiếp bằng sức mạnh của năng lượng vào nơi có bệnh. Sóng mang nguồn năng lượng sinh học phù hợp với người bệnh do nhà ngoại cảm có thể điều chuyển theo ý niệm đến bất cứ nơi nào bị “thân bệnh” để chữa trị cho người bệnh.
Với người bị nghiệp bệnh, nhà ngoại cảm phải thấu hiểu, cụ thể nghiệp nào tạo ra bệnh để phát sóng tương tác với đối tượng gây bệnh làm hóa giải hoặc thực hiện các yêu cầu của đối tác mà xử lý phù hợp từng trường hợp hoàn toàn mang tính chất tâm linh. Nhà ngoại cảm khi nhận thức được tâm bệnh có thể dùng liệu pháp tâm lý để chữa trị làm an lòng bệnh nhân mà bệnh lui được. Liệu pháp tâm lý, ám thị có tác dụng chữa một số bệnh về “nghiệp”, về “tâm”, về “mệnh” rất hiệu quả và là biện pháp không thể thiếu. Bởi vì các thuốc Đông, Tây y không thể điều trị khỏi các loại bệnh thuộc loại tâm linh này.
“Nghiệp bệnh” để chỉ các bệnh xẩy ra từ nhiều nguyên nhân:
- Người bệnh đã làm các việc ác gây nên sự lo lắng, sợ sệt quá mức làm rối loạn tâm thức. Nhà ngoại cảm phát truyền năng lượng tương tác vào thần thức của người bệnh làm phá tán các ký ức xấu gây bệnh, táo tán xung lực của ký ức không hay.
- Người làm nhiều việc thất đức khiến cho các sóng mang thông tin oán trách, nguyền rủa, trù úm đồng cộng hưởng dồn về một đích gây nhiễu loạn thần thức người bệnh. Nhà ngoại cảm phát sóng làm phá tán các sóng không tiếp tục tới đích để tương tác vào thần thức người bệnh. Bệnh sẽ lui.
 - Do kiếp trước hoặc Tổ tiên của người bệnh làm những điều không đúng, tạo nghiệp nên phải trả nghiệp.
Chữa bệnh bằng năng lượng sinh học dưới hai nguyên lý cơ bản là bổ trợ và công phá để đạt tới hiệu quả theo ý muốn của chủ thể và sự hợp tác của khách thể.
Không có sự hợp tác của khách thể sẽ tạo nên phản lực chống lại lực tấn công. Hiệu quả chữa trị sẽ không đạt. Một lực tác động không thông đều có một phản lực.
Chữa bệnh không dùng thuốc bằng năng lượng của một số người trong những người có khả năng đặc biệt là có cơ sở khoa học, là có thể chữa được một số “Thân bệnh” - thực bệnh và một số lớn “Nghiệp bệnh”, một thứ bệnh không thể chữa trị bằng thuốc Đông hay Tây y hoặc bằng các thủ thuật giải phẫu hay vật lý trị liệu.
Đối với “Mệnh bệnh”, các nhà ngoại cảm có thể giúp người bệnh an lạc, bình tâm (nhờ truyền năng lượng mang thông tin an ủi vào người bệnh) giúp họ thanh thản đón nhận cái chết đến với họ theo quy luật tự nhiên có sinh có diệt và mệnh định đã lập trình.

5. Thực tế và triển vọng trong tương lai của phương pháp chữa bệnh bằng năng lượng sinh học của những người có khả năng đặc biệt
Ở Việt Nam, phương pháp chữa bệnh bằng tâm linh và năng lượng đã có từ xa xưa qua sự hành nghề của các thầy mo, thầy cúng, thầy phù thủy (theo cách gọi của dân chúng). Phương pháp chữa bệnh này phổ biến khi dân trí còn hạn chế, kinh tế eo hẹp, nền y học tiên tiến chưa thể đến được khắp nơi. Trong số những thầy mo, thầy cúng, thầy phù thủy thực sự có nhiều người có khả năng đặc biệt trong chữa trị bệnh tật cho dân chúng. Song, trong số người đó có không ít người lợi dụng trình độ dân trí thấp của dân chúng, đặc biệt là các dân tộc ít người và những người trình độ nhận thức ít ỏi để làm việc “buôn thần bán thánh”. Họ thần thánh hóa, tâm linh hóa quá mức các hiện tượng, phương pháp vốn có cơ sở khoa học, cả khoa học thực nghiệm lẫn khoa học tâm linh xác nhận.
Việc làm đó gây sai lệch tính đúng đắn của phương pháp và sự hiểu sai của các nhà quản trị xã hội. Nó được xếp vào các hiện tượng “mê tín dị đoan”. Sự quy kết võ đoán đó cùng với hệ tưởng duy vật biện chứng chi phối, phương pháp chữa bệnh bằng năng lượng thực sự có hiệu quả này đã không được quan tâm nghiên cứu nghiêm túc, khoa học. Vấn đề hiện hữu từ trước tới nay trong xã hội, trong đất nước bị quên lãng.
Một thực tế đã làm nhiều người có khả năng đặc biệt trong nước đã thực hành chữa trị cho người dân bằng năng lượng sinh học và tâm linh đều bị bài bác, cấm đoán, quy kết truyền bá mê tín, hoang đường. Nhà ngoại cảm quá cố Nguyễn Đức Cần đã từng chữa bệnh bằng năng lượng sinh học từ những năm bẩy mươi thế kỷ XX là một ví dụ. Ông đã bị cơ quan quản lý nhà nước cấm đoán chữa bệnh và bị một số dân chúng cho là mê tín dị đoan. Sự việc phải chờ đến cuối thế kỷ XX mới được xem xét về khía cạnh đúng đắn của phương pháp nhờ có sự chú ý của các nhà khoa học thực nghiệm và sự tôn vinh của dân chúng. Ông Nguyễn Đức Cần là một nhà ngoại cảm đầu tiên Việt Nam được một cơ quan Nhà nước nghiên cứu.
Cuối Thế kỷ XX đến đầu Thế kỷ XXI ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều người có khả năng đặc biệt trong việc chẩn đoán và chữa bệnh. Trung tâm NCTNCN đã nghiên cứu cụ thể ba người: chị Nguyễn Thị Nghi, chị Phạm Thị Phú, anh Trịnh Văn Phong. Có rất nhiều ca bệnh lạ, hiểm nghèo đã được các anh chị cứu chữa. Có những chuyện thực mà tưởng như huyền thoại (xem 2,3,4)  
Thực tế đã có, tương lai sẽ thế nào?
Thế kỷ XX là một thế kỷ nổi bật bốn vấn đề lớn. Đó là thế kỷ của nhiều hiện tượng tâm linh và khoa học tâm linh phát triển; là thế kỷ của giới nữ nắm nhiều quyền quản lý xã hội tối cao; là thế kỷ gây rối của một số tôn giáo tạo ra những hậu quả nghiêm trọng, bi thương; là thế kỷ có nhiều thay đổi về môi trường bất lợi như biến động về địa chất, về khí hậu nóng lên, nước dâng cao làm thành Venise nước Ý chìm sâu, các vùng đảo thấp, bờ vịnh thấp ngậm nước.
Nhiều người có khả năng đặc biệt đã được các nhà khoa học tiên phong dũng cảm nghiên cứu làm rõ và xác nhận khả năng đặc biệt. Các nhà ngoại cảm đã mạnh dạn đương đầu với nhiều quan niệm xã hội để tự khẳng định năng lực của bản thân về các mặt thấu thị, tiếp xúc với Thế giới vô hình để tìm mộ các liệt sỹ, một nhu cầu phổ biến và khắc khoải của người dân, hay về giao tiếp với thế giới siêu thực, vô ảnh; về dự đoán tương lai và đặc biệt về phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc bằng năng lượng sinh học.
Phương pháp chữa bệnh bằng năng lượng sinh học là một phương pháp đạt nhiều hiệu quả. Đó là hiệu quả chữa được nhiều “Thân bệnh” và “Nghiệp bệnh”, là hiệu quả kinh tế, là hiệu quả phổ cập, đơn giản về đầu tư thiết bị, cơ sở chữa bệnh không cần quy mô, hiệu quả về tính tiện ích như linh động uyển chuyển về nơi chữa bệnh, về khả năng phục vụ người bệnh phù hợp với hoàn cảnh của từng người bệnh, người thầy.
 Nguyên lý chữa bệnh có cơ sở khoa học. Điều kiện chữa trị lệ thuộc vào khách thể và chủ thể. Tác nhân chữa bệnh của chủ thể là nguồn năng lượng có trong tự nhiên. Nguồn năng lượng xanh này là vô cùng phong phú về chủng loại, vô biên về số lượng, tự do miễn phí về thu nhận. Một phương pháp hoàn toàn tùy theo vào con người với tâm đức và tư tưởng “Cứu nhân độ thế” của họ. Bởi vì phương pháp lệ thuộc cơ bản vào chủ thể - người chữa bệnh có sẵn lòng hay không?
Năng lượng có trong Vũ trụ bao la là vô hạn. Năng lượng hấp thụ, tích lũy của con người lại có giới hạn - kho chứa có mức độ, không phải con người muốn có là được. Ngoài khả năng bẩm sinh được “Trời phú” còn cần có phương pháp tu tập hợp lý, giải phóng năng lượng là cần nhưng phải phù hợp với nhận định bệnh cảnh của người bệnh, phù hợp khả năng bản thân người chữa bệnh.
Phương pháp chữa bệnh bằng năng lượng mở ra một tương lai sáng sủa và điều kiện tốt để phục vụ sức khỏe cộng đồng và vì hạnh phúc của bệnh nhân.

6. Một số đề xuất
Phương pháp chữa bệnh bằng năng lượng sinh học là một thực tế và có hiệu quả, không những chữa trị được nhiều bệnh trạng mà nền y học phát triển của Đông y và Tây y không thể chữa mà còn là một phương pháp chữa trị hết sức có hiệu quả về mặt kinh tế. Những phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc của những người có khả năng đặc biệt đã góp phần điều trị bệnh vì sức khỏe cộng đồng. Trong khi hoàn cảnh kinh tế của đại đa số người dân còn eo hẹp, chi phí y tế ngày càng cao và mạng lưới y tế còn chưa bao phủ hết các địa bàn vùng sâu vùng xa thì phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc đặc biệt quan trọng và hữu ích.
Hiện nay ở Việt Nam có nhiều người có khả năng đặc biệt đang thực hành chữa bệnh bằng năng lượng sinh học cho dân chúng và được dân chúng chấp nhận, tin cậy. Hơn nữa, tương lai của phương pháp chữa bệnh này sẽ phát triển mạnh ở thế kỷ XXI. Đây là một phương pháp có cơ sở khoa học.
Khả năng đặc biệt có thể có còn do rèn luyện, tu tập. Bà Breman nhà khoa học, nhà tâm lý trị liệu Mỹ (đã đề cập trên) xác nhận rằng: “Khả năng thấu thị của bà là do sự kết hợp bẩm sinh và tự rèn luyện”.
Như vậy, từ tính khoa học, từ xu thế thời đại, từ tính kinh tế của phương pháp và khả năng có thể rèn luyện, đào tạo thực tế, phương pháp này cần đặc biệt quan tâm và tạo điều kiện ứng dụng và phát triển.
Chúng tôi xin có một số đề xuất một số vấn đề sau:
- Các nhà khoa học trong các ngành liên quan đi sâu nghiên cứu kỹ hơn nữa để xác minh tính khoa học, tính đúng đắn, tính thực tiễn, tính hiệu quả và tính tiện ích của phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc bằng năng lượng sinh học, nhằm tạo “danh chính ngôn thuận” cho phương pháp này.
- Trên cơ sở đó đề xuất chính thức với các cơ quan hữu trách để đưa vào phổ biến và đào tạo chuyên khoa này trong một trường y đặc biệt.
- Khảo sát, điều tra thực tế, thống kê chính xác số người thực sự có khả năng đặc biệt có thể chữa bệnh bằng năng lượng để làm hạt nhân đào tạo bồi dưỡng, hướng dẫn phát triển lực lượng “thầy thuốc” này cho đất nước.
- Cuối cùng, khi vấn đề đã được làm sáng tỏ, sẽ được các cơ quan quản lý chấp nhận, chấm dứt việc ngăn cản bài xích và có chính sách cũng như cách cư xử có lý, có trách nhiệm đối với những người thầy trong lĩnh vực này đã và đang hành nghề.
Xin trân trọng cảm ơn.

Tài liệu tham khảo
1. Trần Văn Đích, Vũ trụ và con người dưới góc độ khoa học tâm linh, NXB Văn hóa dân tộc. 2006, tr. 59
2.  Trung tâm NCTNCN, Báo cáo kết quả đề tài “Nghiên cứu khả năng ngoại cảm của chị Phạm Thi Phú tác động…..Năm 2008
3.  Trung tâm NCTNCN, Báo cáo kết quả đề tài “Nghiên cứu khả năng chữa bệnh bằng tâm linh của chị Nguyễn Thị Nghi” năm 2010
4.  Trung tâm NCTNCN, Báo cáo kết quả đề tài “Nghiên cứu khả năng chữa bệnh bằng Phật pháp kết hợp thuốc Nam của anh Trịnh Văn Phong”, năm 2010  



[1] Thạc sĩ, tác giả trên chục cuốn sách về tâm linh, văn hóa Phương Đông
[2] Trần Văn Đình, Vũ trụ và con người dưới góc độ khoa học Tâm linh, trang 59

TÂM THẦN HAY MA NHẬP

Bài đăng trong Kỷ yếu Hội nghị KH toàn quốc lần 1 tháng 12/2016 về "Nghiên cứu và ứng dụng khả năng đặc biệt của con người do Viện NC&ƯD tiềm năng con người chủ trì cùng 12 đơn vị NCKH tương đồng.  

TÂM THẦN HAY MA NHẬP
Lâm Ngọc[1]
I. Giới thiệu:
Bệnh tâm thần là một thảm họa của nhân loại. Theo ước tính có đến một phần năm nhân loại trong một thời gian nào đó có những biểu hiện của bệnh tâm thần. Y học gọi họ là bệnh nhân tâm thần, xã hội gọi là người điên. Dân gian thì cho là do ma quỷ gây nên hoặc cho là đời cha ăn mặn đời con khát nước.
Thật ra chỉ cần không bước qua ni một khoảnh khắc quá căng thẳng của cuộc sống, nhiều người đã phải từ giã cuộc sống bình thường để bước sang một thế giới khác. Ở thế giới đó họ vẫn tồn tại nhưng là tồn tại trong một trạng thái vô thức, thẫn thờ vô cảm, không kiểm soát được cảm xúc của bản thân. Có xác mà vô hồn.
Trong số các bệnh tâm thần thì nhóm bệnh rối loạn tư tưởng (thought disorders) chiếm phần lớn nhất. Tên Y học là schizophrenia hay tâm thần phân liệt, dùng để chỉ bệnh điên loạn. Lẫn lộn với loại bệnh này còn có hiện tượng ma nhập với những triệu chứng tương tự. Khoa học không chấp nhận chuyện ma nhập, vẫn cho đó là bệnh tâm thần và chữa trị theo y khoa. Nhưng trong thực tế, hiện tượng nhập xác chẳng có gì xa lạ đối với dân gian. Kinh thánh Thiên Chúa giáo ghi lại những phép lạ do Chúa Giêsu thực hiện, nổi bật nhất là những chuyện trừ ma, đuổi quỷ. Hiện nay, giáo Hội La Mã vẫn cho phép một số linh mục tiếp tục nối gót Chúa Giêsu làm nghi thức  trục  ma, tiếng Anh gọi là "exorcism". Tuy nhiên chúng ta cần biết rằng đa số là bệnh tâm thần, chỉ một số ít là do phần âm tác động.
"Hiện tượng Ma nhập hay Bệnh tâm thần". Bài này nhằm phân tích hiện tượng mà có người cho là do tác động của phần âm, trong khi khoa học khẳng định là bệnh tâm thần có thể chữa trị bằng y khoa. 

II. Tâm Thần:
- Ðịnh nghĩa: Là một bệnh lý của não, có nguyên nhân do trục trặc của não bộ, trung khu thần kinh bị biến động, có những biến đổi sinh học phức tạp, chịu tác động mạnh của môi trường tâm lý xã hội và gia đình không thuận lợi dẫn đến trở thành bất bình thường..   
- Nguyên nhân: Đa số do hứng chịu những cú sốc tâm lý quá lớn của cuộc sống (sợ hãi, tình cảm, kinh tế, người thân chết v.v…) Một số do tai nạn, môi trường sống, rối loạn hormone. Yếu tố di truyn cũng đang được nghiên cứu.
Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học, hầu như mỗi người ai cũng có lúc có biểu hiện của bệnh tâm thần.
* Một số loại bệnh tâm thần thường gặp:
Theo y văn của nhiều nước, có trên 300 loại bệnh tâm thần khác nhau. Một số loại bệnh tâm thần phổ biến như sau:
- Tâm thần phân liệt (Schizophrenia)‏
- Rối loạn đa nhân cách (Personality   Disorders)‏
- Hoang tưởng (Paranoid)‏
- Ảo giác (Hallucinations)‏
- Nghe tiếng nói (Auditory Hallucinations)‏
- Rối loạn suy nghĩ (Disorganized Thinking)‏
- Kích động (Hysteria)‏
- Hứng khởi (Elation)
* Các dấu hiệu bệnh tâm thần:   
-  Tâm trạng và cảm xúc: tuyệt vọng, có cảm giác tội lỗi, lo sợ, tủi nhục …
-  Suy nghĩ và lời nói: Muốn tự sát, hay quên, lo lắng về sức khoẻ, nói vô nghĩa, nghĩ là đang bị theo dõi, nói một mình ...
-  Thái độ và hành vi: Thích ẩn dật, ngủ quá ít hoặc quá nhiều, bỏ vệ sinh cá nhân, có những tư thế lạ, thích di chuyển…
-  Cơ thể: hay mệt mỏi, ăn không ngon miệng, chóng mặt, đau tức ngực, khó thở, toát mồ hôi, tự đốt hay cắt da thịt, sợ nước, sợ ánh sáng …
* Ðiều trị Y khoa:
-  Nếu nặng thì phải đưa đến bệnh viện tâm thần. Có nhiều phương pháp điều trị, bằng các liệu pháp tâm lý, thôi miên, uống thuốc …
-  Nếu nhẹ thì có thể ở nhà điều trị.
Môi trường gia đình và xã hội đóng vai trò rất quan trọng đối với người bị bệnh tâm thần.

 III. Ma nhập:
-  Ðịnh nghĩa: Là một hiện tượng huyền bí phát xuất từ cõi vô hình. Một đối tượng bị phần âm chiếm xác thực hiện những hành vi ngôn ngữ ngoài sự kiểm soát của mình.
-  Dân gian: Gọi là bệnh phần âm, bệnh đằng dưới, ma nhập. Biểu hiện dưới nhiều hình thức như liêu trai, hồn ma báo oán, …   
-  Tôn giáo: Tất cả các tôn giáo đều gọi là tà nhập và có phương pháp trị tà riêng.
-  Y khoa: Cho tất cả đều là bệnh tâm thần.
* Một số nguyên nhân ma nhập: Theo nghiên cứu của những nhà huyền bí học, hiện tượng ma nhập thường do một trong những nguyên nhân như sau:
- Vô lễ với cõi vô hình.
- Có ân oán với phần vô hình trong quá khứ.
- Nhiều nguyên nhân khác ... như tham gia cầu cơ, hầu đồng, cầu hồn…
* Một số triệu chứng của hiện tượng ma nhập:
Đa số tương tự như những triệu chứng của bệnh tâm thần:
- Đau bụng, nhức đầu không rõ nguyên nhân.
- Giật kinh.
- Hay gây tiếng động.
- Giảng đạo/chống đạo.
- Đập phá bàn thờ.
- Đối đáp khôn ngoan.
- Ánh mắt tinh lanh có ánh xanh.
- Le lưỡi dài.
- Uốn cong người.
- Xưng này xưng nọ.
- Sợ ánh sáng.
- Giỡn nước nhiều/sợ nước.
* Một số phương pháp giải trừ phần âm:
Tùy theo quan niệm dẫn đến có nhiều cách giải trừ phần âm khác nhau.
- Các tôn giáo đều có phương cách và nghi lễ riêng. Tất cả đều nhân danh Đấng Tối Cao ra lệnh cho con tà phải xuất ra. Kết cục thường là chánh thắng tà, giúp củng cố đức tin của dân gian đối với các tôn giáo.
- Dân gian có nhiều cách, tìm thầy cúng, các pháp sư dùng roi dâu, máu chó mực …

IV. Quan điểm của Y khoa:
Y Khoa xem hiện tượng ma nhập cũng chỉ là một trong những triệu chứng của bệnh tâm thần, hoặc là chứng rối loạn đa nhân cách, ảo giác hoặc là những biểu hiện của tâm thần phân liệt và dứt khoát không chấp nhận hiện tượng ma nhập. Sự tiến bộ của y khoa đã giúp rất nhiều bệnh nhân tâm thần quay trở lại hội nhập đời sống bình thường nhưng cũng còn rất nhiều trường hợp y khoa vẫn chưa thể cứu chữa được và đặc biệc có một số trường hợp y khoa bó tay thì các tôn giáo và các pháp sư trong dân gian lại giúp được một số bệnh nhân này được hoàn toàn lành bệnh.

V.  Quan điểm của dân gian và các tôn giáo:
Hầu như dân gian và tất cả các tôn giáo đều công nhận có hiện tượng ma nhập và đều có những nghi thức giải trừ ma nhập theo giáo thuyết và phương pháp riêng của mỗi tôn giáo cũng như các phương pháp bí truyền của các pháp sư trong dân gian và cũng có khi thành công có khi thất bại. Rất nhiều trường hợp sau khi được các tôn giáo, pháp sư chữa không lành, gia đình đưa vào bệnh viện lại được các bác sĩ chữa lành.

VI. Một số nghi thức luật lệ trừ tà của Vatican:
Công giáo là tôn giáo khẳng định có ma nhập và đã có đề ra luật lệ ban hành từ năm 1624 cho các Giám mục và Linh mục để tiến hành những nghi thức trừ tà, luật lệ này đã được tòa thánh Vatican tu chỉnh và ban hành chính thức vào ngày 26 tháng 1 năm 1999 trong đó có nhiều thay đổi rất quan trọng như khẳng định sự hiện hữu của ma quỷ, cần có phương pháp trừ tà hiện đại hơn, nên phối hợp với y khoa hiện đại, phải nghiên cứu học hỏi các triệu chứng tâm thần… điều này cho thấy Vatican đã nhận ra tầm quan trọng của y khoa trong việc phân biệt hiện tượng ma nhập và bệnh tâm thần và cần phải phối hợp, tham khảo với các bác sĩ y khoa trong việc chữa trị.

VII. Một số điểm khác nhau giữa Tâm thần và Ma nhập:
Y học tân tiến với bao tiến bộ vẫn còn đang cố gắng tìm kiếm nguyên nhân của bệnh tâm thần hầu mong có cách điều trị tốt đẹp. Y học đã thu được một số kết quả như một số bệnh tâm thần do tật bẩm sinh, do rối loạn hormone dopamine trong não, do tổn hại hệ thần kinh vì thiếu dưỡng khí lúc sanh ra do ngộ độc hóa chất hay ma túy, hoặc do các chấn động mạnh của não bộ hay tâm sinh lý. Nhưng y học vẫn chưa tìm ra nguyên nhân của bệnh tâm thần ở một số lớn trường hợp khác, trong đó có nhóm người bị ma nhập.
Khoa học không có bằng chứng về sự hiện hữu của thế giới vô hình, hơn nữa triệu chứng ma nhập và bệnh tâm thần gần giống nhau, cho nên không chấp nhận hiện tượng nhập xác. Ngoài rối loạn trong não bộ, khoa học còn tìm thấy người bệnh thường ở lớp trẻ từ 15 đến 45 tuổi, đa phần có cuộc sống nghèo khổ, bất hạnh, trong dòng dõi cũng đã có người mắc bệnh thần kinh. Khởi đầu người bệnh bị trầm cảm, sống biệt lập và lười săn sóc áo quần, diện mạo. Họ bắt đầu nói năng không mạch lạc và buông xuôi mọi sinh hoạt cần thiết như học hành, công ăn việc làm. 
Các triệu chứng này có thể biến mất sau một thời gian vài tuần, vài tháng, vài năm, hay càng nặng hơn là trở thành vĩnh viễn như đờ đẫn, không xúc động, mất đi sự liên kết giữa tư tưởng và cảm xúc. Ý tưởng không còn mạch lạc, liên tục, lại hay nghi bậy và tin bậy (Delusion), rồi lại thả mình vào trong thế giới ảo tưởng đó. Ngoài ra họ còn có ảo giác (hallucinations) nghe tiếng mời gọi thúc giục trong tai như tiếng của Thượng Đế, của ma quỷ, của kẻ thù v.v… Đôi khi họ lại thấy hào quang, ánh sáng, thấy Phật, thấy Chúa, hay ma quỷ v.v… Người bệnh hành động, xử thế quái dị, cười nói huyên thuyên, kể ra những điều dị thường xen giữa những cơn hứng khởi (elation), hoạt bát, công kích, phá phách v.v….
Người bị ma nhập thường có thời gian phát bệnh ngắn, thường là dưới một năm, có trường hợp 3 năm và cũng có khi dài lâu hơn, trong khi đó rối loạn tâm trí có thể kéo dài cả đời. Người bị rối loạn tâm thần, triệu chứng lập đi lập lại vô ý nghĩa trong khi người bị ma nhập có những lúc tỏ ra tinh khôn, nói năng hoạt bát.  Gia đình bệnh nhân thường biết rõ phần vô hình muốn gì, công kích hay chửi bới ai. Nhưng trước bác sĩ và những người ngoài cuộc, thì hồn ma lại có những hành động như người mất trí  để che dấu tông tích của mình.
Phần vô hình mượn các triệu chứng tâm thần để đến với đối tượng trong mục tiêu báo thù cho những thiệt hại mà người này và gia đình đã gây nên trong quá khứ. Hồn ma, có thể là người rất gần gũi với gia đình người bị nhập, đến để đòi món nợ tình, tiền hay  mạng sống bằng lối hành xác. 
Đôi khi phần vô hình quá tinh khôn, còn dẫn dụ thầy pháp tiếp tay tra tấn nạn nhân bằng lửa, roi dâu hoặc làm nhục với đồ dơ như phân gà, máu chó. Tệ hại hơn nữa, trong những trường hợp đòi mạng, phần âm còn mượn tay thầy pháp đánh đập người bị nhập cho đến chết. Ngoài ra, phần vô hình cũng có thể xui nạn nhân tông xe, nhảy lầu v.v… 
Nói chung, với cặp mắt của người bình thường, rất khó phân biệt bệnh tâm thần hay hiện tượng ma nhập vì hầu như là giống nhau. Tuy nhiên, vẫn có một số điểm căn bản khác nhau có thể giúp chúng ta phân biệt:



* Tâm Thần:
- 90% là tâm thần.
- Lù đù.
- Lập đi lập lại vô ý thức.
- Ánh mắt lờ đờ.
- Nói vô nghĩa.
- Đập phá lung tung.
- Không nhớ những gì đã nói.
- Đa nhân cách: Không nhớ các nhân cách kia.
- Thời gian bịnh: đa số dài

* Ma Nhập:
- Một số rất ít ma nhập.
- Lanh lẹ.
- Đối đáp khôn ngoan.
- Ánh mắt tinh lanh.
- Lý luận logic, Giảng/bài bác đạo.
- Đập phá bàn thờ.
- Nhớ những gì đã nói.
- Nhiều phần âm nhập: Nhớ rất rõ các phần âm.
- Thời gian bịnh: đa số ngắn


VIII. Quan điểm của bộ môn Nghiên cứu hiện tượng siêu hình (NCHTSH)
- Qua phần trình bày trên, chúng ta đã thấy rõ được một số sự khác biệt của bệnh tâm thần và hiện tượng ma nhập. Đây là hai lãnh vực riêng biệt. Cho nên muốn giải trừ phần âm phải nhờ chuyên gia huyền bí, cũng như muốn chữa bệnh thần kinh phải đến bác sĩ y khoa.  Tuy nhiên, trường hợp nhập xác tương đối hiếm hoi cho nên sự kiện y khoa xem tất cả đều là bệnh tâm thần cũng là điều thuận lợi cho nhân loại và đặc biệc khi y khoa gặp những trường hợp ma nhập sẽ là động lực thôi thúc các y bác sĩ tiếp tục nghiên cứu để tìm ra những phương pháp mới giúp điều trị cho các bệnh nhân tâm thần.
Điều quan trọng chúng ta cần biết đó là đa số là bệnh tâm thần, chỉ có một số ít là hiện tượng ma nhập vì vậy khi có những triệu chứng xảy ra cho người bệnh thì chúng ta cần đưa đến y khoa trước, một sự kết hợp hài hòa giữa kiến thức y khoa và hiểu biết về tâm linh siêu hình chắc chắc sẽ mang lại nhiều ích lợi tốt đẹp cho những bệnh nhân tâm thần hay bị ma nhập.
Một khía cạnh được nhận thấy ở đây đó là những tín đồ; là những chuyên gia y khoa của các tôn giáo lớn tại các nước phát triển phải hành xử như thế nào giữa một bên là chuyên môn y khoa và một bên là đức tin, giáo thuyết. Nếu chỉ tin vào y khoa thì xem như đi ngược lại giáo lý đức tin của tôn giáo mình đang theo mà nếu tin có ma nhập thì xem như đã phản bác lại chính nền tảng căn bản của kiến thức chuyên môn y khoa của mình. Tương tự như vậy nếu các chuyên gia huyền bí không có kiến thức y khoa hoặc thiếu tham khảo với các bác sĩ y khoa thì sẽ hành xử với những bệnh nhân như những kẻ mê tín, tạo nên những tác hại rất tệ hại cho bệnh nhân và xã hội.
Bộ môn NCHTSH cũng có cách riêng, thường là mời phần âm về để đối thoại, tìm ra nguyên nhân hiện tượng ma nhập, thương lượng với phần âm và đứng ra bảo lãnh để hướng dẫn người bị nhập cùng người thân trong gia đình biết cách trả món nợ cho phần âm nhằm giải quyết ân oán của hai bên. Cách hay nhất để trả nợ cho phần âm là làm công đức và hồi hướng cho phần âm.



Giải trừ ma nhập có khi rất phức tạp và gay cấn như trong phim Exorcist, hay trong những nghi thức trừ tà cổ điển của thầy pháp hay một số tôn giáo theo nguyên tắc nhân danh đấng tối cao ra lệnh trục xuất con ma, kết quả là chánh thắng tà. Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể thuyết phục con tà chấm dứt hành xác nếu nắm vững được căn nguyên của hiện tượng ma nhập.  Như đã nói trên, hồn ma đến để đòi món nợ mà người bị nhập hay gia đình đã thiếu trong quá khứ. Món nợ này có thể hiểu như những bất công mà những người này đã mang tới cho hồn ma trước đó. Như vậy tại sao chúng ta lại bênh vực cho kẻ có nợ là người sống để đánh đuổi nạn nhân là hồn ma về đòi nợ. Chúng ta cần phải là quan tòa vô tư và công bình để phán xét. Trên quan điểm này thì chính hồn ma mới là nạn nhân thực sự,  xuất hiện để đòi công bằng và nếu như được cam kết trả nợ thì phần âm sẽ vui vẻ ra đi.
NHẬN ĐỊNH:
- Phần vô hình nương theo các triệu chứng tâm thần với mục đích đòi lại những thiệt hại mà người này đã gây ra cho hồn trong quá khứ.
- Ma nhập thường có thời gian ngắn vì chỉ cần giải quyết xong ân oán là hồn sẽ ra đi.
- Có mục đích, có đối tượng. Chỉ những người có ân oán mới bị nhập.
- Người ngoài không biết, không hiểu nhưng trong gia đình thì hiểu rất rõ.
- Hơn nữa hiện tượng ma nhập phát xuất từ cõi vô hình chắc hẳn phải nằm trong thiên ý vì mang lại lợi ích tâm linh cho nhiều người, sau khi chứng nghiệm hiện tượng ma nhập dẫn đến thức tâm, tin tưởng vào thế giới tâm linh, biết cầu nguyện và sống thiện lành hơn.
- Cho nên người mắc nạn có được giúp đỡ hay không còn tùy thuộc vào duyên phước và những người chung quanh hữu duyên được chứng nghiệm cũng được xem là có phước.
- Trong cái rủi cũng có cái may là sau khi thoát nạn, người bị ma nhập cũng như gia đình thường có nhiều thay đổi tốt đẹp về mặt tâm linh. Có lẽ trong lúc khốn cùng họ tìm sự nương tựa nơi chùa chiền, nhà thờ hoặc những chỗ huyền bí linh thiêng, để rồi cũng tại những nơi này họ tìm được con đường đạo thích hợp. Phải chăng vì lợi ích tâm linh này mà thần linh đã làm ngơ cho phần âm hoành hành qua hiện tượng ma nhập.
- Như vậy có thể kết luận rằng mọi hiện tượng ma nhập đều nằm dưi sự điều động của Bề Trên với mục đích căn bản là thức tâm những người hữu duyên.
- Do đó gìn giữ giới luật, sống thiện lành và nhất là nhớ câu Đức trọng quỷ Thần kinh thì chắc chắn sẽ không bị ma nhập.


[1] Nhà nghiên cứu , Bộ môn Nghiên cứu những hiện tượng siêu hình, Viện NC&UDTNCN