Thứ Tư, 13 tháng 6, 2018

NGHIÊN CỨU TÂM LINH VIỆT: MỘT SỐ ỨNG DỤNG MỚI TRONG ĐỜI SỐNG VÀ KHOA HỌC

Bài đăng trong kỷ yếu Hội nghị KH toàn quốc lần 1 tháng 12/2016 về "Nghiên cứu và ứng dụng khả năng đặc biệt của con người" do Viện NC&ƯD tiếm năng con người chủ trì tổ chức với sự cộng tác của 10 đơn vị NCKH những nội dung tương đồng.

NGHIÊN CỨU TÂM LINH VIỆT:
MỘT SỐ ỨNG DỤNG MỚI TRONG ĐỜI SỐNG VÀ KHOA HỌC

Phùng Văn Duân[1], Nguyễn Đức Thiện[2]

1.     Đôi nét khái quát về Tâm Linh của dân tộc Việt
Nói khái quát về Tâm Linh của dân tộc Việt, có thể diễn giải một cách nôm na như sau. TÂM LINH VIỆT bao gồm 3 yếu tố là TÂM + LINH + VIỆT.
Yếu tố thứ nhất: TÂM - đó là cái TÂM trong sáng, không tham sân si, không ích kỷ, sẵn lòng giúp đỡ mọi người, biết hy sinh lợi ích của riêng mình vì nghĩa cả đối với dân tộc, với Tổ Quốc…
Yếu tố thứ hai: LINH - đó là sự linh thiêng, linh ứng, hiển linh, giáng linh… của những vị tuy đã qua đời nhưng vẫn có ảnh hưởng rất quan trọng đối với cuộc đời của ta.
Yếu tố thứ ba: VIỆT - chính là nền tảng đạo đức Việt. Đó là nhớ ơn gia tiên của mình, nhớ ơn Tổ Tiên của dân tộc, nhớ ơn những người đã cống hiến và hy sinh cả cuộc đời mình cho dân cho nước; đó là truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây – những điều này được thể hiện rõ nhất trong Đạo Thờ Tổ Tiên của dân tộc Việt [1]; đó còn là truyền thống vun trồng cây phúc cho con cháu, tích đức tích thiện, ‘làm điều lành tránh điều dữ’, cha mẹ không ‘ăn mặn’ để cháu con không bị ‘khát nước’; đó còn là truyền thống thương yêu đùm bọc ‘đồng bào’ của mình, thương người như thể thương thân, nhiễu điều phủ lấy giá gương – người trong một nước thì thương nhau cùng…
Tâm Linh Việt chỉ có một, không có hai. “Cái MỘT” đó mới CHÍNH là cái ĐÚNG DUY NHẤT. Còn những “cái HAI” khác đều là TÀ GIAN quỷ quyệt, giả mạo, hiểm thâm, ác độc, hại nước ta hại dân ta, là kẻ thù của dân tộc Việt ta – do đó là kẻ thù của Tâm Linh Việt. Những thế lực muốn hủy diệt văn hóa Việt và làm mỏi mòn sức sống để tiêu diệt dân tộc Việt thì luôn tồn tại từ suốt mấy nghìn năm nay. Do đó bên cạnh Tâm Linh Việt luôn luôn có rất nhiều bọn tà gian quỷ quyệt giả mạo là Tâm Linh Việt để làm hại dân ta. Trong rất nhiều trường hợp tà gian đánh lừa người dân Việt bằng cách khéo trá hình, giả mạo làm Tổ Tiên của người Việt để dần dần dẫn dắt và sai khiến họ làm những việc hại nhà, hại nước, hại dân. Bởi vậy có sự đấu tranh quyết liệt giữa Tâm Linh Việt với tà gian trong suốt cả chiều dài lịch sử của dân tộc Việt.
Nghiên cứu về Tâm Linh Việt trước hết cũng giống như nghiên cứu về các mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa lá cành hoa trái với gốc rễ của cây, giữa dòng sông lớn với các mạch nguồn của nó. Do vậy nghiên cứu về Tâm Linh Việt có thể đem lại một loạt những ứng dụng quan trọng trong rất nhiều lĩnh vực đời sống và cả trong khoa học.
Trong bài này chúng tôi xin nêu một số ứng dụng mới của nghiên cứu về Tâm Linh Việt trong đời sống và khoa học.

2.    Nghiên cứu Tâm Linh Việt và một số ứng dụng mới
2.1. Nghiên cứu ứng dụng Tâm Linh Việt giúp xóa bỏ nhiều bất hạnh cho con người
Trong cuộc sống hiện nay rất nhiều người và nhiều gia đình gặp bất hạnh do vướng mắc về tâm linh. Một số bất hạnh mà con người thường gặp phải như: bị tai họa hoặc bệnh tật mà không bệnh viện nào hoặc thầy thuốc nào chữa khỏi được. Những tai họa đó gồm đủ loại: từ đau đầu, đau mắt, đau dạ dày, xương khớp, sinh sản… đến bệnh tâm thần, cờ bạc, nghiện ngập .v.v. Tai họa cũng có thể xảy ra theo kiểu khác, như: trai khôn không lấy được vợ, gái ngoan không lấy được chồng, hoặc bị lỡ dở, hoặc phải trải qua nhiều lần đò.
Có những bệnh do khiếm khuyết về sinh học, hoặc bởi lý do xã hội hoặc bởi lý do trần thế;  tạm gọi những bệnh đó là ‘bệnh dương’. Trong khi đó lại có những bệnh tật hoặc tai họa mà nguyên nhân không phải như vừa nêu ở trên, mà gây bởi tà hoặc vong bám trong người, hoặc do đất đai, long mạch bị tác động xấu, hoặc do mồ mả gia tiên bị tác động xấu, hoặc do nghiệp chướng gây bởi các đời trước trong gia tiên…; tạm gọi các bệnh hoặc tai họa như vậy là ‘bệnh âm’.
Nghiên cứu ứng dụng Tâm Linh Việt đã giúp cho rất nhiều người được chữa khỏi ‘bệnh dương’ và rất nhiều người được chữa khỏi ‘bệnh âm’.
Các bậc Thánh Thần (là Tổ Tiên của dân tộc Việt) đã hiển linh truyền dạy những phương thuốc chữa nhiều ‘bệnh dương’. Dưới đây là một vài trong số các phương thuốc mà Tổ Tiên đã giáng linh truyền dạy cho Đồng Thiên N.T.S. (B.N.) và đã được áp dụng ngay với hiệu quả thần kỳ:
Phương thuốc chữa phát ban, mẩn ngứa
Phát ban mẩn ngứa
Lấy sữa Mộc Châu (*)
Ngâm chân lúc lâu
Bỗng đâu hết ngứa
Các lứa tuổi nào
Ngâm vào khỏi hết!
(Chú ý: Dùng sữa Mộc Châu không đường!)
Phương thuốc xông mũi bị tắc cho người đang mang thai
Tắc mũi mẹ bầu
Húng rổi xông đầu
Sạch lầu tắc mũi!
Phương thuốc chữa bệnh đau nhức xương khớp
Rượu trắng ngâm với hạt cau
Đợi cho ngấm khoảng là sau một tuần
Cổ vai lưng gáy toàn phần
Nhức đau ê ẩm, tay chân tê buồn
Uống vào thông mạch đỡ luôn
Thuốc này không có bán buôn thị trường
Chẳng tốn tin của trần dương
Mang lại hiệu quả tương đương dược thần!
Còn các ‘bệnh âm’ thì chỉ có thể chữa được bằng những phương pháp thích hợp của Tâm Linh Việt (như:  trục vong tà ra khỏi người, trục vong tà ra khỏi đất ở, giải nghiệp…). Thực tế hoạt động của Trung tâm ‘Nghiên cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt’ cho thấy: chỉ tính trong năm năm 2012-2016 vừa qua đã có ngót 400 gia đình dòng tộc được hóa giải nghiệp chướng, nhiều trăm gia đình đã được trục vong tà ra khỏi đất ở và khoảng nửa nghìn người đã được trục vong tà ra khỏi người – rất nhiều người và rất nhiều gia đình đã được cứu thoát khỏi cảnh đời bất hạnh và bệnh tật.
2.2. Nghiên cứu về nghiệp chướng và ứng dụng
Nghiên cứu về nghiệp chướng và ứng dụng là một vấn đề lớn [2], sẽ được trình bày riêng trong một báo cáo khác [3]. Trong phạm vi bài này, dưới đây chúng tôi chỉ xin nêu vắn tắt.
Nghiên cứu thực chứng về nghiệp và giải nghiệp tại Trung tâm ‘Nghiên cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt’ cho thấy: Nếu một vị nào đó trong các đời của gia tiên một dòng tộc đã phạm phải lầm lỗi hoặc phạm tội nào đó (tức là đã gây nên một nghiệp) thì các con cháu thuộc nhiều đời sau của dòng tộc vẫn còn phải gánh chịu hậu quả gây bởi nghiệp này. Những hậu quả đó là những tai họa như vừa nêu ở đầu mục trên, thậm chí là mất cả mạng sống của không ít người trong mấy đời liên tiếp.
Trong năm năm qua, tại Trung tâm ‘Nghiên cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt’ có ngót 400 gia đình dòng tộc ở 24 tỉnh và thành phố cả ba khu vực miền Bắc, miền Trung và miền Nam của đất nước đã được hóa giải nghiệp chướng theo đúng phương cách mà Tổ Tiên của dân tộc đã giáng linh truyền dạy cho các Đồng Thiên. Nhờ vậy rất nhiều gia đình đã được giải thoát khỏi tai họa do nghiệp chướng, được trở về với cuộc sống bình yên.
Kết quả nghiên cứu về nghiệp chướng là một lời xác nhận không thể chối cãi về sự thực rằng “Đời cha ăn mặn thì đời con khát nước!”, đời cha ông mắc tội/lỗi/sai lầm nên cháu con nhiều đời phải chịu nghiệp. Đây là lời nhắc nhở con cháu nghiêm khắc nhất của nhiều đời cha ông của nhiều dòng tộc.
Kết quả nghiên cứu về nghiệp và giải nghiệp cũng đồng thời góp phần chấn hưng đạo đức và văn hóa ứng xử trong xã hội hiện nay, góp phần làm giảm để tiến tới xóa bỏ những tiêu cực trong nhiều khâu hành chính và quản lý hiện nay.
2.3.     Ứng dụng tâm linh trong nghiên cứu khảo cổ học
Một lĩnh vực nghiên cứu khảo cổ học có ý nghĩa rất quan trọng đối với lịch sử của dân tộc Việt ta – đó là nghiên cứu xác định vị trí mộ các bậc Tổ Tiên của dân tộc Việt. Việc ứng dụng các phương pháp tâm linh để xác định vị trí mộ các bậc Tổ Tiên của dân tộc Việt đã được những người có Tâm có Đức với cội nguồn của dân tộc triển khai từ khoảng những năm 1995, đặc biệt là từ năm 2008 đến nay, đã đem lại những kết quả quan trọng.
Trong khoảng thời gian 4 năm (2008-2012), nhóm nghiên cứu của Trung tâm ‘Nghiên cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt’ đã tiến hành 82 lần khảo nghiệm tâm linh tại hơn bốn chục vị trí mộ phần của các bậc Tổ Tiên của dân tộc Việt từ thời thượng cổ tới cách nay hai nghìn năm, với sự tham gia của gần 40 nhà ngoại cảm, tổng cộng hơn 150 lượt nhà ngoại cảm tâm linh.
Dưới đây xin nêu những kết quả sơ bộ của quá trình khảo sát tâm linh này về hơn bốn chục phần mộ của Tổ Tiên [4].
Vị trí mộ của các bậc Tổ Tiên được xác định với độ chính xác rất cao, gần như là chính xác tuyệt đối, tên của Vị Thánh (hoặc Thần) dưới mộ hoàn toàn trùng khớp với tên của Đức Ngài được ghi trong Ngọc Phả. (Phát hiện một trường hợp trong số hơn bốn chục khu mộ đã được khảo sát là không thấy có sự trùng khớp này – đó là trường hợp mộ của vua Hùng Vương thứ 18 (Hùng Duệ Vương) và người em ruột (Hùng Dực Công) không còn ở vị trí như đã ghi trong Bách Việt ngọc phả truyền thư; bởi mộ đã được người dân địa phương di dời sang vị trí khác (do sơ xuất nhầm lẫn) từ khoảng 20 năm trước thời điểm khảo sát). Các phần mộ thường đi kèm với các di tích đình, đền thờ… Các nhà ngoại cảm tâm linh đã miêu tả đúng tên mộ của vị Thần Thánh, xác định nhiều thông tin đúng như trong sách Bách Việt Ngọc phả truyền thư  đã viết. Các nhà ngoại cảm tâm linh được các bậc Tổ Tiên nói lại cho biết như ghi trong sử cổ mà họ không hề biết nội dung sử trước đó. (Ví dụ: Với phần di tích của Vua Triệu Đà: Nhiều nhà ngoại cảm tâm linh còn được nhìn thấy cả hình hài của Đức Vua và họ được biết nhiều chi tiết quan trọng như: a- Nơi chôn Đức Ngài là gò Bình Phán tại Thạch Bích; b- Nơi có lăng mộ Triệu Văn Đế (là con của Trọng Thủy và là cháu nội của Đức Ngài) là núi Tượng Cương nay thuộc Quảng Châu Trung Quốc; c-  Đức Ngài Triệu Đà và Chử  Đồng Tử là bạn mò cua bắt ốc từ thuở nhỏ; d- Đức Ngài Triệu Đà là con cháu Hùng Vương, tên của mẹ Ngài là Trần thị Quý (có 3 nhà ngoại cảm nói tên trùng nhau)… Và đặc biệt hơn nữa, trong lần đầu tiên tới khảo sát mộ Mẫu thượng Ngàn (tại quận Hà Đông, thành phố Hà Nội): khi vừa mới thắp hương lên thì lập tức có điện thoại của nhà ngoại cảm tâm linh từ Hải Dương gọi về nói luôn là ‘Mẫu đang giáng đây! Các con đã tìm đúng mộ Mẫu!’ - Mẫu đã giáng bằng lời văn rất cụ thể mặc dù nhà ngoại cảm này không hề biết về buổi khảo sát hôm đó và cũng không tham dự buổi khảo sát đó .v.v.).
Các phương pháp tâm linh cũng đã được áp dụng để kiểm tra lại các di tích đã được khai quật trước đây và điều chỉnh lại những điều chưa đúng trong quá trình khai quật khảo cổ (đã làm ảnh hưởng đến vong linh mộ phần). Cụ thể như đối với khu mộ của bảy Vị Tướng thời Hai Bà Trưng (gồm các mộ của ba anh em Thánh Mẫu Lê Chân cùng bốn anh em Ngài Đặng Xuân - chồng của Bà Trưng Nhị) ở huyện Phú Xuyên Hà Nội và đối với khu mộ của Bát Bộ Kim Cương (tức là tám người cậu của Đức Ngài Kinh Dương Vương) ở quận Hà Đông Hà Nội.
Các phương pháp tâm linh đã được ứng dụng để xác định niên đại của di tích cổ đại (như hang Thánh Hóa ở Kinh Môn, Hải Dương, mộ Đức Ngài Nguyễn Long Cánh và con Ngài là Ông Hoàng Bơ ở Nguyệt Áng huyện Thanh Trì, Hà Nội.v.v.).
Ứng dụng các phương pháp tâm linh để nghiên cứu khảo cổ là một cách làm việc thực sự mới, có hiệu quả rất cao, tiết kiệm được nhiều thời gian, công sức và tiền của.
2.4.     Ứng dụng tâm linh trong nghiên cứu lịch sử của dân tộc
Rất nhiều sách vở, sử liệu của nước ta đã bị mất mát (do: Đất nước bị giặc phương Bắc đô hộ trong suốt cả nghìn năm, bị nhiều nước xâm chiếm (Tầu, Pháp, Nhật); Chiến tranh tàn phá, mất mát; và, do những biến động của đất nước trong một thời gian dài). Rất nhiều sách vở, sử liệu của nước Việt ta rơi vào tay kẻ thù và đã bị chúng chủ tâm thay đổi, xuyên tạc - đặc biệt là đối với phần cổ sử của dân tộc Việt – nhằm xóa bỏ tận gốc rễ hiểu biết của người dân Việt về cội nguồn của dân tộc mình để chúng dễ bề đô hộ và nuốt chửng nước Việt ta. Bởi vậy những nỗ lực nghiên cứu để tìm lại lịch sử đích thực của dân tộc là cực kỳ cần thiết và vô cùng quý giá.
Trong gần chục năm qua ở Trung tâm ‘Nghiên cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt’ đã bước đầu ứng dụng các phương pháp tâm linh trong nghiên cứu lịch sử của dân tộc; đã áp dụng cách này để:
- Nghiên cứu lịch sử dựng nước thời các Vua Hùng và trước các Vua Hùng
- Nghiên cứu các di tích thờ Đức Vua Triệu Vũ Đế và lịch sử thời nhà Triệu.
- Nghiên cứu lịch sử thời Hai Bà Trưng.
- Nghiên cứu tìm lại các bằng chứng lịch sử, các bia đá cổ, các sách sử cổ đã bị thất truyền .v.v.
Nhờ vậy đã được nghe những lời giáng dạy của Tổ Tiên khẳng định sự thật về các giai đoạn lịch sử của dân tộc (như được thể hiện rất rõ ở phần ‘Tích Trời, Tích Đất, Sử Nhà’ trong sách ‘Đạo Thờ Tổ Tiên dân tộc Việt’ [1]), về từng di tích, về nhiều bậc Tổ Tiên của dân tộc, và, về lịch sử của các vùng miền, các làng nghề.
Để minh họa điều này, dưới đây xin nêu vài dẫn chứng cụ thể:
a. Trong buổi khảo nghiệm tâm linh tại đình làng Vĩnh Ninh ở Thanh Trì Hà Nội, Thánh Mẫu Lê Chân đã giáng linh chỉ dạy cho biết rằng cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng kể từ khi bắt đầu nhen nhóm cho tới khi bị tắt hoàn toàn là kéo dài 10 năm chứ không phải chỉ có 6 năm như trong các sách lịch sử hiện nay viết.
b. Trong buổi khảo nghiệm tâm linh tại vị trí mộ của Đức Ngài Sở Minh Công (ông nội của Ngài Kinh Dương Vương): Đức Ngài đã hiển linh và nói cho nhà ngoại cảm phiên dịch lại lời Đức Ngài nói rằng Đức Ngài có 3 người con trai là Nguyễn Minh Khiết, Nguyễn Nghi Nhân và Nguyễn Long Cảnh; Đức Ngài còn cho biết là người con nào làm vua ở xứ nào của nước Việt ta [4].
c. Thánh Mẫu Lê Chân đã giáng linh chỉ dạy cho biết về di tích Đền Thờ Đức Ngài ở Hải Phòng khi xưa.
v.v…
Việc ứng dụng Tâm Linh Việt trong nghiên cứu lịch sử của dân tộc ta có một điểm mạnh nổi bật mà các phương pháp nghiên cứu khác không thể có được. Đó là người nghiên cứu được biết ngay kết quả! Điều này giúp cho việc định hướng nghiên cứu nhanh chóng và tìm các cơ sở khoa học khác để chứng minh cho kết quả đã được biết trước. Bởi vậy đây là con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất và đúng nhất để nghiên cứu lịch sử của dân tộc ta. Đây cũng là cơ sở quan trọng để ta hiểu thêm biết thêm về những góc khuất của lịch sử, để ta loại bỏ những điều xuyên tạc, để ta sửa lại những điều sai lệch để ta bổ sung thêm những chi tiết những khúc đoạn quan trọng làm sáng rõ lịch sử đích thực của dân tộc ta.
2.5.     Ứng dụng tâm linh trong nghiên cứu văn hóa của dân tộc
Trung tâm ‘Nghiên cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt’, việc ứng dụng Tâm Linh Việt để nghiên cứu văn hóa của dân tộc ta cũng đã bước đầu được thực hiện; cụ thể là để nghiên cứu về văn hóa trà ở thời đại Hùng Vương và thời nhà Triệu. Trong khi thực hiện khảo nghiệm cụ thể này, nhà nghiên cứu vừa mới đặt câu hỏi xong thì đã được nghe các bậc Tổ Tiên giáng linh qua các Đồng Thiên giảng giải cặn kẽ ngay tức khắc mặc dù những người trần này còn chưa qua hết cấp 1 cấp 2 của bậc học phổ thông và họ cũng chưa biết văn hóa trà là gì.
Thật đáng trân trọng biết bao những nỗ lực ứng dụng Tâm Linh Việt để được nghe những lời giáng dạy quý giá của Tổ Tiên dẫn dắt chúng ta đi tìm lại nền văn minh đã bị mất hoặc đã bị đánh cắp mất của dân tộc Việt ta – ví dụ như: chữ Việt cổ, văn minh lịch pháp, văn minh lúa nước, văn minh y dược, văn minh dự báo v.v. ..mà Tổ Tiên ta đã sáng tạo nên thậm chí là từ dăm-bảy nghìn năm trước [1].
2.6.     Ứng dụng tâm linh trong quy hoạch và xây dựng các khu đô thị và khu công nghiệp
Tất cả những gì chúng tôi quan sát được và ghi nhận được trong suốt ba năm ròng rã liên tục thực hiện ‘nghiên cứu thực chứng về nghiệp và giải nghiệp’ đã cho thấy một thực tế không lay chuyển được; đó là: Chết không phải là đã hết! Chết không có nghĩa là sẽ chẳng còn có chuyện gì diễn ra sau khi chết! Và, ‘LINH HỒN của các họ gia KHÔNG BAO GIỜ MẤT mà là VẪN LINH’! [2,3].
Sau khi một người chết thì thân xác mất đi nhưng linh hồn thì không mất mà vẫn tồn tại  và ta thường gọi là vong hoặc vong linh. Nhiều vong thường vẫn trú ngụ ở nơi đất mà thân xác của họ nằm lại, và đó được coi là ‘nhà’ là ‘đất ở’ của họ. Trong thực tế, hai thế giới (= hai ‘cõi’) âm và dương đồng thời tồn tại; chỉ có điều là hầu hết chúng ta không nhìn thấy được các vong (âm) mà thôi. Trong nhiều trường hợp đất ở của người trần (dương) có khi cũng là nơi trú ngụ của không ít vong âm (ngay cả khi xương cốt của thân xác họ có thể đã tan biến hết!); mà trong phần lớn các trường hợp thì ‘người âm’ có thể đã ‘đến ở’ đất này sớm hơn người trần chúng ta (cho nên cái lý họ là ‘chủ đất’ còn mạnh hơn cái lý là chủ đất của người trần!). Bình thường thì hai bên âm và dương ‘cùng chung sống hòa bình’ với nhau; nhưng cũng không hiếm trường hợp xảy ra ‘va chạm’ hoặc thậm chí ‘xung đột’; mà một trong số những nguyên nhân có thể là do người trần dương làm những việc gây hại cho sự bình yên của ‘người âm’ – ví dụ như: đào bới, san ủi, gây chấn động mạnh .v.v. hoặc thậm chí làm ‘mất nhà mất đất ở’ của ‘người âm’.
Việc xây dựng những công trình như các khu đô thị và khu công nghiệp .v.v. cũng có thể là một nguyên nhân như thế - làm mất nhà mất đất ở của rất nhiều người âm. Do đó làm cho rất nhiều người âm có thể phản kháng mạnh mẽ với người trần. Sự phản kháng mạnh mẽ của người âm có thể dẫn đến không ít hậu quả tai hại cho cuộc sống của người trần.
Vấn đề tâm linh liên quan tới việc xây dựng các khu đô thị và khu công nghiệp .v.v. như vừa nêu trên không thể coi thường và càng không thể giải quyết một cách thô bạo theo kiểu thấy xương cốt thì bốc đi nơi khác được; bởi lẽ:
- Cái lý nhiều người âm là chủ đất có thể còn mạnh hơn rất nhiều so với cái lý người trần dương là chủ đất (vì họ đã ‘đến ở’ đất đó có thể rất lâu trước người trần dương!).
- Người trần dương lấy quyền gì để ‘cưỡng chế’ đuổi người âm ra khỏi ‘nhà’ của họ mà thậm chí không hề có một thỏa thuận nào về sự ‘đền bù’ cho người âm? ([i])
- Xương cốt của thân xác rất nhiều người âm có thể đã tan biến không còn dấu vết từ lâu trước khi họ bị người trần dương ‘cưỡng chế đuổi ra khỏi nhà’. Những người âm này sẽ trú ngụ vất vưởng tại đâu khi bị ‘mất đất mất nhà’?
v.v…
Tổ Tiên dân tộc Việt ta là người đã sáng tạo ra nền văn minh lúa nước; mà những người làm lúa nước thì luôn biết sống hòa hợp với môi trường. Chúng ta - người trần dương - cùng với người âm đều là những thành phần của môi trường và đều cùng tồn tại trong môi trường. Bởi vậy ‘vấn đề nhà đất’ giữa người dương với người âm cần phải được xử lý theo đúng truyền thống và tinh thần hòa hợp của Tổ Tiên dân tộc ta.
Chúng tôi luôn nghĩ rằng vấn đề liên quan đến tâm linh ở nước ta thì phải được giải quyết theo đúng đường, đúng lối của Tâm Linh Việt. Đối với việc quy hoạch và xây dựng các khu đô thị và khu công nghiệp .v.v. cũng rất cần phải làm như vậy, không thể để tái diễn những trường hợp làm tổn hại sự bình yên của người âm và đặc biệt là vô lễ xúc phạm các bậc Tổ Tiên của dân tộc ([ii]).
3.    Kết luận
Nhờ có truyền thống uống nước nhớ nguồn mà dân tộc ta có ĐẠO THỜ TỔ TIÊN. Người Việt ta thành tâm theo Đạo Thờ Tổ Tiên, luôn thành tâm kính nhớ tới Tổ Tiên, nghe theo Tổ Tiên sống tu tâm gột đức, tích đức tích thiện, nên thường được Tổ Tiên giáng linh chỉ dạy và dẫn dắt. Đó là một phúc lớn của chúng ta.
Tổ Tiên là chỗ dựa thiêng liêng nhất và vững chắc nhất cho mỗi người con của dân tộc Việt chúng ta. Thành tâm tin tưởng vào Tổ Tiên, tin tưởng vào Tâm Linh Việt và ứng dụng Tâm Linh Việt thì chúng ta:
- Xóa bỏ được bất hạnh cho biết bao gia đình; đồng thời góp phần chấn hưng đạo đức và văn hóa ứng xử trong xã hội hiện nay, góp phần làm giảm để tiến tới xóa bỏ những tiêu cực trong nhiều khâu hành chính và quản lý hiện nay!
- Có cơ sở quan trọng để ta hiểu thêm biết thêm về những góc khuất của lịch sử, để ta loại bỏ những điều xuyên tạc, để ta sửa lại những điều sai lệch, và, để ta bổ sung thêm những chi tiết những khúc đoạn quan trọng làm sáng rõ lịch sử đích thực của dân tộc ta!
- Biết đi đúng đường đúng hướng để sớm tìm lại được nền văn minh đã bị mất hoặc đã bị đánh cắp mất của dân tộc Việt ta mà Tổ Tiên ta đã sáng tạo nên thậm chí là từ dăm-bảy nghìn năm trước!
- Biết xây dựng cuộc sống hòa hợp với môi trường, hòa hợp với các dân tộc khác trên thế giới đồng thời vẫn vững vàng gìn giữ được bờ cõi thiêng liêng mà Tổ Tiên đã tạo lập nên từ mấy nghìn năm trước!
Cùng với Đạo Thờ Tổ Tiên, Tâm Linh Việt là cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt chúng ta. Tôn kính Tổ Tiên, nghe theo và làm đúng theo những lời giáng dạy của Tổ Tiên – cũng chính là chúng ta nối gót được Tổ Tiên, góp phần làm tăng thêm sức mạnh quật cường của dân tộc Việt ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.    Trung tâm ‘Nghiên cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt’. Đạo Thờ Tổ Tiên dân tộc Việt. Nhà Xuấ bản Hồng Đức. Hà Nội, 1-2016.
2.    Phùng Văn Duân và Nguyễn Đức Thiện. Báo cáo đề tài ‘Nghiên cứu thực chứng về nghiệp và giải nghiệp’. Trung tâm ‘Nghiên cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt’. Hà Nội, 2015.
3.     Phùng Văn Duân và Nguyễn Đức Thiện. ‘Nghiên cứu thực chứng về nghiệp và giải nghiệp’. Hội nghị khoa học toàn quốc “Nghiên cứu và ứng dụng khả năng đặc biệt của con người”. Hà Nội, 13-12-2016.
Đào Vọng Đức và Nguyễn Đức Thiện (Trung tâm ‘Nghiên cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt’). Xác định mộ một số bậc Tổ Tiên của dân tộc bằng các phương pháp tâm linh. (Báo cáo tại Hội thảo về các dòng họ Việt, -2016)
([1]) - Ghi chú:   Chúng tôi đã tham dự và chứng kiến buổi trao đổi của một vị chủ đất người dương xin vong linh của một cụ già (= ‘người âm’, hiện nay không còn con cháu ở Việt Nam) cho phép được chuyển mộ của cụ đi nơi khác để gia đình xây dựng nhà ở. Ngay từ đầu cuộc trao đổi, vị chủ đất người dương đã nghiêm trang hứa sẽ xây mộ đẹp và hàng năm hương khói, Tết nhất tử tế cho cụ; nhưng cụ vong không tin và cũng không muốn đi khỏi đất đó! Xin năm lần bảy lượt rồi, vị chủ đất người dương còn phải vẽ cho cụ vong xem sơ đồ vị trí mộ ở nơi mới cụ sẽ chuyển đến đẹp như thế nào, vui thế nào… Sau khi cụ vong đồng ý cho chuyển mộ cụ đến nơi mà cụ chấp thuận, vị chủ đất người dương còn phải xin cụ duyệt cho kiểu dáng và kích thước cụ thể ngôi mộ sẽ xây; rồi còn phải xin cụ duyệt cho kiểu dáng và kích thước cụ thể ngôi mộ sẽ xây; rồi còn phải xin cụ duyệt cho ngày chuyển mộ.v.v. Mộ được chuyển sau khi cụ vong vui vẻ chấp thuận các đề nghị của vị chủ đất người dương. Kể từ khi chuyển mộ này đến nay đã qua hai cái Tết; mỗi lần gặp chúng tôi vị chủ đất người dương đều nhắc lại là đã làm đúng theo lời hứa với cụ vong.
([1]) - Ghi chú [4]:   Phường Phú La (thuộc quận Hà Đông, TP Hà Nội) đã là nơi có mộ của Đức Thánh Mẫu Thượng Ngàn. Tại đây đã có cả một quần thể di tích, có miếu thờ, cây đa cổ thụ, giếng nước… nhưng khi làm khu đô thị thì chính quyền địa phương cùng chủ đầu tư dự án vẫn san phẳng tất cả bất chấp sự phản đối của nhân dân. Trong một buổi khảo nghiệm tâm linh tại đây, Đức Thần Hoàng của làng đã giáng nhập trực tiếp vào một người dân làng và Ngài cho biết: Thánh Thần Việt Nam đã xét xử và ghi tội của những người phá mộ của Đức Thánh Mẫu Thượng Ngàn. Chỉ chưa đầy 6 tháng sau thì: · Bí thư đảng phường này vì bị khiếu kiện nên mất chức và có thể bị truy tố hình sự; · Vợ của giám đốc chủ dự án thì bị phát hiện là mắc bệnh ung thư; · Chủ thầu cố tình đưa xe vào san ủi thì bị chết bởi tai nạn giao thông. Những sự kiện này chỉ là ngẫu nhiên hay đó chính là lời báo trước Đức Thần Hoàng đã linh ứng?!


[1] PGS TS, Hội đồng Khoa học Trung tâm nghiên cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt
[2] TS, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt








THẾ GIỚI MA - HIỂU ĐỂ ĐỪNG MÊ TÍN

Bài đăng trong kỷ yếu Hội nghị KH toàn quốc lần 11 tháng 12/2016 về "Nghiên cứu và ứng dụng khả năng đặc biệt của con người" do Viện NC&ƯD tiềm năng con người chủ trì tổ chức với sự cộng tác của 10 đơn vị NCKH các nội dung tương đồng.

THẾ GIỚI MA - HIỂU ĐỂ ĐỪNG MÊ TÍN
 Vũ Thế Khanh[1]                          
  Từ xa xưa, hầu hết các nước trên thế giới đều có những nghiên cứu liên quan đến Ma, và tỷ lệ những  người sợ Ma ở các quốc gia cũng phải chiếm quá nửa dân số . Vậy có ma hay không có ma? Có những dạng ma nào? Tính chất của nó ra sao?
NGOẠI MA VÀ NỘI MA
Trước hết, về ý nghĩa tượng trưng thì “Ma” là một phạm trù chỉ những điều xấu ác, tiêu cực, mờ ám trong ý thức và hành vi của đương sự. Phạm trù này được thể hiện trong cách nói như: âm mưu Ma quỷ, mưu Ma chước quỷ, liên minh Ma quỷ, thói ranh Ma, Ma mọi, Ma túy... Do vậy khái niệm “Ma” không nhất thiết dùng để chỉ thần thức của người đã khuất, mà còn dùng để ám chỉ cho hành vi của cái tâm bất lương, ngay cả khi người đó còn sống vẫn có thể gọi là Tâm Ma.
Ma không chỉ có một loại, mà có đến 10 loại Ma, và được chia thành 2 nhóm  là Ngoại Ma (hay còn họi là Thiên Ma) và  Nội Ma (Tâm Ma). Đa số dân chúng hiểu khái niệm “Ma” nghiêng nhiều về loại Ngoại Ma, còn Nội Ma thì không mấy ai chú ý đến.
Vậy Ngoại Ma là gì?
Ngoại Ma là phần vật chất vi tế thoát ra và cắt đứt được sự ràng buộc với cơ thể hữu hình khi cơ thể ấy không còn chức năng sinh học (tức bị Chết). Phần vật chất hữu hình của cơ thể,  gọi là xác thân, hoặc còn gọi là Thân tứ đại , bao gồm 4 đại lượng chính  (Đất, Nước, Gió , Lửa). Phần vật chất vô hình vi tế, tuy mắt thường không nhìn thấy, nhưng nó vẫn tồn tại, ngay cả trường hợp phần thể xác không còn nữa. Khi con người chết đi thì lực lượng vật chất này thoát ra khỏi thân tứ đại, tiếp tục tồn tại dưới dạng thân Trung ấm, và chờ đủ duyên thì đi tái sinh vào lục đạo luân hồi tương ứng với nghiệp lực đã gieo theo lý Nhân Duyên Quả. Khi lực lượng tâm thức này thoát ra, sẽ được thể hiện dưới nhiều dạng phong phú, và được gọi bởi nhiều cái tên khác nhau  (tùy theo mức độ tiến hóa Tâm linh của người đó),  như có thể gọi: Người âm , Cô hồn, linh hồn, Vong, Vong linh, Hương linh, Anh linh, Chân linh, Giác linh, ... Đạo Phật gọi phần vật chất vô hình này với cái  tên chung là THẦN THỨC.  Đương nhiên, khi chưa đi tái sinh thì các phần vật chất ( dạng Thần Thức)  này sẽ có tương tác rất mạnh với thể giới hữu hình theo lý nhân duyên Tương sinh và Tương khắc. Tương sinh là do có ân nghĩa, thân thuộc với nhau, Tương khắc là do có thù oán, nợ nần với nhau khi còn tại thế. Dạng thần thức này thường được gọi chung là MA (hay Ngoại Ma, Thiên Ma) , do vậy khi đi dự tang lễ,  người ta thường gọi là đi viếng đám Ma, hay là đi đưa Ma, …
Ngoại Ma là yếu tố mang tính khách thể, tồn tại độc lập với  xác chết, nhưng vẫn còn có ảnh hưởng  tương tác với yếu tố chủ thể của cơ thể sống. Ngoại Ma mang tính khách quan bởi vì nó là sự kiện ngoại cảnh nằm ngoài cơ thể (nên gọi là Ngoại), nó tác động đến chủ thể chứ không phải do chủ thể phát sinh ra nó. Ngoại Ma có tương duyên với yếu tố chủ quan của mỗi cơ thể sống là bởi tuân theo nguyên lý cộng tác dụng: “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Điển hình cho trạng thái này là câu ví von trong dân gian : “đi với Bụt mặc áo Cà Sa, đi với Ma mặc áo giấy”. Ngoại Ma cũng có loại Thiện, loại Ác tùy theo căn cơ của chúng sinh, và chúng cũng có đầy đủ các phép thần thông, (như nhân vật Bạch Cốt Tinh trong chuyện Tây Du Ký vậy). Ngoại Ma có khả năng biến hóa thần thông nên Ngoại Ma  thường dùng sở trường này làm phương tiện cứu cánh để chuyển thông điệp đến thế giới hữu hình. Để ám chỉ khả năng biến hóa của Ngoại Ma, người ta thường nói: “Bụt cao 1 trượng, Ma cao 10 trượng”. Ngoại Ma cũng giống như đạo giang hồ, (chỉ ưa dùng võ công để phân định cao thấp chứ không ưa dùng luật pháp). Tuy nhiên, với những người tu hành chánh đạo thì họ không đề cao Thần thông mà chỉ coi trọng luật Nhân Quả: “Thần thông không bằng Đạo thông”, cũng ví như nhà chức trách thi hành công vụ thì dùng pháp luật là chính, không lạm dụng vũ lực hoặc võ thuật..
Nội Ma là gì?
Nội ma bắt nguồn từ ác tâm nằm trong tâm khảm của hành giả. Trong kinh sách nhà Phật đã chỉ ra 9 loại Nội Ma, tức là 9 loại tiêu cực phát sinh trong tâm thức của hành giả như:
1-Ma oan nghiệt nhiều đời:
Ta thường nghe nói “oan oan tương báo”, tức những nợ nần với nhau nhiều đời. Chữ nghiệt là nghiệt ngã, làm cho mình đau khổ. Ma oan nghiệt nhiều đời chính là nghiệp chướng nhiều đời của ta. Nghiệp chướng thì ai cũng có. Nhưng nghiệp là gì ? Là năng lực do thân khẩu ý của mình tác động, khi đối duyên xúc cảnh nó bị bó buộc lại thành năng lực gọi là nghiệp. Từ đó, nó hướng dẫn mình đi trong luân hồi sanh tử. Nói nghiệp chướng nhiều đời của ta tức là loại ma oan nghiệt này. Loại ma oan nghiệt này tất cả chỉ do hành động tạo tác của chúng ta.
Ma oan nghiệt cũng có từ sự ăn mặc, ngủ nghỉ, quan hệ bà con quyến thuộc, sống chết, danh vị, tiền tài… Nếu không làm chủ được thì nợ nần chồng chất. Làm chủ được thì tức thời ngay đó an lạc. Còn cứ dong ruổi ngược xuôi, vướng mắc rồi oan nghiệt. Như trong kinh Phật nói tám thứ khổ trong đời: sanh, lão, bệnh, tử, oán tắng hội khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc, ngũ ấm xí thạnh cũng từ oan nghiệt này mà ra.
Trong điều một nói về ma oan nghiệt, do quá khứ đã chúng ta thấy quanh quẩn trong phạm vi mê lầm tạo những nghiệp như bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa, sát, đạo, dâm, vọng, tức là đã phạm ngũ thường: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Muốn trừ được Ma oan nghiệt nhiều đời thì Nhân bất sát sanh, nghĩa bất thâu đạo, lễ bất tà dâm, trí bất ẩm tửu, tín bất vọng ngữ.
2- Ma phiền não:
Chữ phiền một bên bộ hỏa một bên bộ hiệt  giống như cái đầu bị lửa đốt. Nghĩa là khi phải tiếp xúc với sự việc gì đó mà nghe nóng trong đầu, bực bội không yên thì đó là phiền. Chữ Não một bên bộ tâm một bên có bộ xuyên tức hệ thống thần kinh não bộ bị động. Giống như cái nồi bị nung lửa, những thứ trong đó sôi sục lên. Tóm lại, phiền não là không yên trong lòng. Lòng đã không yên thì rối rắm, tăm tối, theo đó tác động ra bên ngoài các giác quan bất an, bất ổn. Như người mất búa ngồi trong nhà nhìn ra ngoài, thấy toàn là những người ăn trộm búa của mình.
Người ta cần  phải triệt tiêu phiền não như thế nào ? Nghĩa là đối cảnh đừng sanh tâm. Bởi vì trong tâm còn có vấn đề nên đối cảnh còn sanh tâm. Chúng ta làm sao đối cảnh không sanh tâm, cảnh tham không tham, cảnh sân không sân… Không luận là ai, nếu được như vậy thì người đó là Phật. Ngài Lâm Tế có nói câu: “Phùng Phật sát Phật, phùng ma sát ma”. Dù cảnh Phật, chúng ta cũng biết rằng đó là vọng tưởng. Nếu chẳng dứt sớm thì tánh định khó hiện. Như thấy sắc tâm sanh là tâm dâm phiền não. Không đợi dính mắc gì hết mà đối với sắc trần khởi niệm là đã có phiền não, đã có vấn đề rồi, phải chỉnh đốn. Thấy giết tâm sanh là tâm giết phiền não. Thấy của tâm sanh là tâm trộm phiền não. Thấy vật tâm sanh là tâm tham phiền não. Với người sanh mạn là ngã tướng phiền não. Đối kẻ thấp kiêu ngạo là phiền não tự đại. Gặp cảnh nghịch sanh tâm là tâm khuể phiền não. Gặp cảnh thuận sanh tâm là phiền não thích ý. Gặp oan gia sanh ghét là tâm hận phiền não. Cùng thân thích sanh yêu là tâm tư phiền não…
Chúng ta nhiều khi bị vọng tưởng dẫn đi một cách say mê. Bởi vì nó thay hình đổi dạng, phát tiết từ nơi những lỗ chân lông của mình. Có những loại vọng tưởng cứng ngắc làm cho mình nhức nhói, có những loại vọng tưởng mềm mại làm cho mình thích thú. Tóm lại, không tỉnh là bị nó dẫn đi thôi.
3- Ma sở tri:
Thường người tu theo đạo Phật hay bị ma sự. Ma sự có hai loại: Một là nội ma, hai là ngoại ma. Nội ma tức là những cố chấp bên trong. Ngoại ma tức là những vướng mắc bên ngoài. Những vướng mắc bên ngoài ta không giải tỏa, không vượt qua, không khắc phục được thì bị nó đánh gục. Như thế chúng ta bị ngoại ma phá hoại, làm cho đường tu không tiến được. Nếu như chúng ta khắc phục được những ma sự bên ngoài, nhưng đến những chất chứa, những cố thủ cù cặn bên trong mà không trừ bỏ, không vượt qua được thì chúng ta lại bị một loại ma nữa. Loại này cứng đầu khó trị, tuy nhiên nó cũng từ ta mà có, không phải ở bên ngoài đến. Buông được vọng tưởng thì có định, ma lực bên ngoài không làm gì được chúng ta. Nếu được định thì tuệ giác phát triển. Tuệ giác phát triển thì nội ma cũng không làm gì được. Bọn ma chỉ là những niệm tưởng lăng xăng điên đảo, nó là bóng dáng của tiền trần. Chúng dấy khởi lên bất cứ lúc nào trong mọi sinh hoạt.
Cho nên có thể nói ngoại ma là những vướng mắc bên ngoài, nội ma là những chấp thủ bên trong. Người tu lúc nào cũng sáng suốt thấy rõ ma sự nên không để nó làm gì được mình. Một niệm dấy khởi mà không làm chủ được thì sẽ bị chúng ma kéo lôi ngược xuôi, tạo bao nhiêu hậu quả, vô vàn sinh tử không có ngày cùng. Đó là nỗi điên đảo lớn lao mà gốc gác là do chúng ta không làm chủ được.
Những loài ma quái bên ngoài trị không khó. Văn minh đến đâu thì những loài ấy rút lui đến đó. Nhưng loài ma trong tim gan, trong máu thịt của mình mới là khó trị. Đây là những vướng mắc, những cố chấp, những cù cặn bên trong mà mình chưa dám thảy ra. Hãy thảy ra. Chúng ta đừng nghe nói ma mà tưởng nó là hiện hình râu tóc ghê rợn. Ma đây là sự thối chuyển, sự khiếp nhược, sự cố chấp… mình bị vướng mắc những thứ đó là ma. Có một loại ma rất khó trừ, đó là ma sở tri tức là những chấp thủ bên trong. Ma này thuộc về lý chướng.  Chướng này còn có tên là chấp pháp, tức là chấp bên trong.
4- Ma tà kiến:        
Đây là nói những kiến chấp. Theo tinh thần đạo Phật, dù tu pháp môn nào, mà tu tới đâu chấp tới đó, tức là tà đạo. Ví dụ ở trong Thiền viện này, có vị tu làm chủ được thân tâm, buổi chiều không ăn uống gì hết mà vẫn an nhiên khỏe mạnh, rồi chấp cho đó là chân lý, như vậy là tà. Tóm lại, tà kiến, tà chấp là những căn bệnh thâm căn cố đế.  Ở đây nói những thứ chấp: Chấp tánh chẳng hoại, gọi là chấp có. Nghĩa là chấp có các sự vật còn hoài không mất, đó gọi là chấp có. Chấp tánh vốn không, gọi là chấp không. Điều này chúng ta dễ lầm lắm. Như nói tánh các pháp là không, nếu nghe như vậy mà cho không có gì cả thì trật. Các Thiền sư nói chúng ta tu hành mà không đả thông được những kiến chấp.
Chúng ta phải là người đầy đủ từ bi trí lực, mới có thể thành tựu được. Còn một chút kiến chấp là còn trở ngại. Ở đây nói chấp có, chấp không, chấp bất tử, chấp thường, chấp diệt, chấp đoạn, chấp tự nhiên… Tóm lại những cái lầm chấp, chúng ta lượm lặt ôm giữ cố thủ, bảo vệ từ lâu nay
5- Ma vọng tưởng:    
Ma vọng tưởng này là tự chướng. Tự chướng chẳng không, thì dòng sanh diệt tiếp nối. Điên đảo tán loạn, che chướng bản tâm, do đó người tham thiền cần lưu tâm nhiều ở điểm này. Nay xin đưa ra một vài vọng chướng tiêu biểu để trình bày, như: Vọng tưởng ta ngộ đạo - Vọng tưởng ta tu chứng- Vọng tưởng ta được định- Vọng tưởng ta phát tuệ- Vọng tưởng ta biết nhiều -Vọng tưởng ta có danh hiển đạt- Vọng tưởng nhiều người cung phụng ta.- Vọng tưởng ta làm thầy thiên hạ- Vọng tưởng nhiều người quy hướng ta - Vọng tưởng ta hóa đạo - Vọng tưởng ta truyền lục - Vọng tưởng ta sẽ được nhập tạng- Vọng tưởng ta có thần thông- Vọng tưởng ta được huyền diệu - Vọng tưởng ta rất kỳ đặc. Và có rất nhiều thứ quái lạ như: Ta sẽ sống lâu, ta sẽ cải lão hoàn đồng, ta sẽ bay cao và ta sẽ thành Phật… Các cuồng vọng như thế, làm rối tâm động niệm, trái với chân thể thanh tịnh của mình.
6 - Ma khẩu nghiệp:
Ma này là cuồng chướng. Loại cuồng chướng này chẳng những làm cho chúng ta chẳng kiệm ngôn, dưỡng đức, mà còn khiến cho tâm chúng ta tán động, lăng xăng. Ma không phải là ma quỷ hiện hình mà những gì làm trở ngại trong sinh hoạt bình thường của chúng ta đều gọi là ma cả.  Ba nghiệp thân khẩu  ý. Khẩu có bốn lỗi là : Nói lời dữ, nói dối vọng, nói thêu dệt, nói hai chiều. Công phu đến đây, hành giả không khéo điều phục khẩu nghiệp, có thể sanh ra đại ngôn cuồng vọng, buông lời bừa bãi, làm chướng ngăn con đường vào Thánh.
7- Ma bệnh khổ:
Đây là khổ chướng. Thân có nhiều bệnh tật là do nghiệp nặng, hoặc tự mình làm mất sự điều hòa, biến sanh các thứ bệnh.
8- Ma thùy miên:
Tức là chướng ngại của ngủ nghỉ quá nhiều.  Ma hôn trầm là một loại ma rất khó trị trong nhà thiền. Nó luôn kèn cựa công phu tu hành của chúng ta và không tha bất cứ ai. Ma vọng tưởng sôi nổi, dữ dằn, tưởng như không có cách gì trị nó, nhưng thật ra nếu công phu liên tục thì khắc phục ma vọng tưởng không khó. Qua giai đoạn sôi nổi cam go đó thì đến quãng êm ả, thoải mái, bình yên. Đến giai đoạn này hành giả vừa ngồi là hai mắt lim dim khép lại, y như từ bi lắm nhưng một hồi thì chao đảo. Đó là ma hôn trầm dẫn. Tại sao ma hôn trầm khó trị? Vì nó mềm mại dịu dàng, dễ thương, dễ gần gũi nên mình không nở quăng nó. Mà không quăng nó được thì phải theo nó thôi. Hơn nữa ma ngủ cùng loạn tưởng, là hai ách chướng khó trị nhất của các hành giả. Có thể nói hai chướng này là hai gộng kềm luôn luôn kẹp chặt hai đầu, bao vây hành giả lẩn quẩn trong đó. 
9. Ma làm mê hoặc
Loại thứ hai là ma bên ngoài đến làm mê hoặc. Đây là những trở ngại bên ngoài đến với người tu chúng ta. Những trở ngại này là từ đạo đức, dáng vẻ, cách cư xử, quyền chước của chính chúng ta thiếu sót mà ra.  Ở đây nói các loại ma bên ngoài là do mình thiếu quyền chước, thiếu lễ nghĩa hay tự cao, ngã mạn, hoặc nói thẳng, hoặc hành động thô, dựa vào thế lực, hoặc ỷ tài giỏi…Hoặc nói lời ác, hoặc cho mình hơn, hoặc nói điều dở của người, hoặc thiếu dáng vẻ hòa diệu, hoặc không cung kính, hoặc lượng hẹp hòi, hoặc thiếu nhẫn nại v.v…
MA VÀ THẾ GIỚI TÂM LINH
Ma có phải là thế giới tâm linh không? Vẫn là câu hỏi nhiều người đặt ra. Thực tế, ma và Tâm linh là 2 phạm trù có đẳng cấp hoàn toàn khác nhau. Tâm linh là từ Hán Việt, được ghép bởi 2 thành tố là “Tâm” và “Linh”. Tâm có 2 dạng thức: Chân Tâm và Vọng Tâm. “Chân Tâm” là cái Tâm hằng sáng suốt (bất sinh bất diệt) mà các bậc chân tu thường hướng tới. Vọng tâm là những tình thức (ái, ố, hỷ, nộ, lạc, ai, dục) trỗi dậy khi 6 căn thức (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với 6 trần cảnh (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). “Linh” là khái niệm dùng để chỉ cho những sự kiện có tính trong sáng, mầu nhiệm, thiêng liêng, kỳ diệu. “Linh” chỉ được dùng với những đối tượng mang tính tích cực chứ không dùng cho các sự kiện mang tính tiêu cực, mờ ám, (cũng giống như “hiền tài, nhân tài” chỉ được dùng cho các bậc vĩ nhân có tư cách cao quý chứ không dùng cho những người giỏi tham nhũng hoặc giỏi phi dao, bắn súng, giỏi trèo tường khoét vách để cướp bóc ). Nghịch nghĩa với “Linh” là “Ám muội”. Người ta chỉ dùng từ “Linh” cho các bậc thần thánh (Thần Linh. Thánh Linh, Thiên Linh, Địa Linh), chứ không dùng từ “Linh” cho Ma Quỷ.  Không ai gọi là Ma linh, Quỷ linh, mà chỉ gọi Ma ám, Quỷ ám.
Vậy Tâm Linh, là khái niệm để chỉ cái  “Tâm trong sáng, mầu nhiệm”, trái ngược với Tâm Linh là Tâm ám muội. Cần phân biệt rõ, Tâm Linh và Ma Quỷ là 2 phạm trù khác xa nhau về bản chất sự việc - cũng như bác sỹ thì có thể nghiên cứu về sức khỏe, về vi trùng, nhưng bác sỹ không đồng nghĩa với vi trùng.
Hiện nay, người ta thường lạm dụng khái niệm “Tâm linh” để chỉ chung cho thế giới vô hình của người đã chết, hoặc các sự việc huyền bí, thậm chí cả ma quỷ cũng gọi là “chuyện tâm linh”... Điều này làm cho khái niệm Tâm Linh mất đi tính tích cực. Như vậy , cũng không nên băn khoăn là “có Ma hay không có Ma”, mà cần phân biệt  dạng ma nào, và tính chất của nó ra sao.
MA CÓ LÀM ĐIỀU XẤU CHO CON NGƯỜI?
Sợ Ma gần như là “bản năng tự nhiên” của người yếu bóng vía khi gặp phải những sự kiện dị thường, kỳ bí. Từ xa xưa, hầu hết các nước trên thế giới đều có những nghiên cứu liên quan đến Ma, và tỷ lệ những  người sợ Ma ở các quốc gia cũng phải chiếm quá nửa dân số. Nhiều người sau khi ra nghĩa địa về nhà thường bị ốm đau cho là ma làm. Điều này cũng có thể bị Ngoại Ma báo ứng do nhân quả, nhưng đó chỉ là hãn hữu, vì đã là nghiệp chướng thì cho dù ta ở bất cứ đâu, Ngoại Ma vẫn có thể tìm đến để “đòi nợ”. Còn đa phần là do bị nhiễm độc của yếu tố môi trường. Cần  hiểu rằng, ở nghĩa địa các xác người chết bị phân hủy, các thán khí độc hại thoát ra từ thịt và xương của động vật bị thối rữa, rất có hại cho cơ thể người còn sống. Nếu ta bị các luồng khí độc đó xâm nhập (gọi là bị ám khí, tà khí, âm khí) cộng với quang cảnh thê lương tác động khiến cho ta rất dễ bị ngộ độc về Tâm cũng như về Thể. Trường hợp này cần xông hơi, đánh cảm để đẩy khí độc ra khỏi cơ thể là được, không nên tin vào mấy vị thầy rởm cúng kiếng linh đình mà tiền mất tật mang.
Ngoai Ma (hay còn gọi là Thiên Ma) là khái niệm chỉ Thần thức của người đã chết. Cách ứng xử của thế giới Ngoại Ma không xấu ác như người ta vẫn nghĩ, mà đa phần là tương tác theo nghiệp báo của Nhân quả (có ân thì báo ân, có oán thì trả oán). Trong các ca khảo nghiệm về ngoại cảm, ta thấy Linh hồn của người thân đã mất (như tổ tiên, ông bà cha me,v.v,…) vẫn che chở và thương yêu con cháu như lúc họ còn tại thế. Ngược lại, với những trường hợp khi họ còn sống bị đánh đập, bị giết hại, bạc đãi …thì linh hồn của họ cũng rất sân hận và luôn có ý định báo thù theo Nhân Quả.  Khi chết đi, thì linh hồn (ngoại ma) hoàn toàn có thể thấy biết được các hành vi xấu của kẻ khác đối với mình. Vì sợ bị Ngoại Ma trả thù, dọa nạt,  cộng với việc khi đã làm điều khuất tất thì Nội ma sẽ chiêu cảm, nên người ta mới hay “sợ ma”. Hơn nữa, Ngoại ma là lực lượng vô hình vô ảnh, thoắt ẩn thoắt hiện rất khó đối phó, lại thường xuất hiện bất ngờ, kinh dị, nên những người có hành vi xấu ác không thể trốn chạy , đã sợ lại càng sợ hơn.  Tuy nhiên , với những người có đạo lực cao, có tâm từ bi sáng suốt thì họ cũng không sợ Ngoại ma, ngay cả khi mơ thấy ma. Các nhà ngoại cảm hoặc các bậc tu hành “gặp ma” là chuyện bình thường. Họ không sợ vì thấy rằng thế giới Ngoại ma cũng tôn trọng luật Nhân quả, thậm chí thế giới Ngoại Ma rất muốn nghe sự nhắc nhở, khai thị  của các bậc minh sư tu hành đắc đạo. Ngoại ma rất thèm khát được cứu độ bằng năng lực Tâm linh, và mong cầu sự từ bi Ba la Mật.
Ngược lại, khi ai đó đã làm việc xấu ác thì Nội Ma luôn thường trực trong tâm trí họ, do vậy chẳng cứ lúc ngủ mơ mà ngay cả khi thức họ cũng luôn bị ám ảnh bởi ma báo thù, khiến cho thần trí bất an, thân tâm hoảng loạn, vì vậy, nhân dân ta mới có câu tục ngữ: “có tật giật mình”.
Trong đời sống hàng ngày, người ta thường sợ Ngoại Ma mà quên đi tác hại của Nội Ma. Thực ra, Nội Ma mới đáng sợ, vì Nội Ma  bắt nguồn từ Ác Tâm, nên tác hại của nội ma rất lớn. Vì Nội Ma nằm trong tâm khảm của hành giả nên nó là “giặc trong nhà”, ta rất dễ bao biện và bênh vực nó, khiến cho ta bị nó cảm hóa và biến ta thành kẻ tòng phạm . Những người tu hành họ không sợ Ngoại Ma mà  thường cảnh giác với Nội Ma. Chiến thắng với những thói xấu ác, chiến thắng huyễn ngã, ma tính trong tâm hành giả mới là điều khó nhất. Do vậy, ở chùa người ta thường đề bức hoành phi ĐẠI HÙNG BẢO ĐIỆN, ý nói chiến thắng chính mình mới là ĐẠI HÙNG.



[1] TS, KTS, Tổng Giám đốc Liên hiệp UIA