Thứ Tư, 13 tháng 6, 2018

NGHIÊN CỨU TÂM LINH VIỆT: MỘT SỐ ỨNG DỤNG MỚI TRONG ĐỜI SỐNG VÀ KHOA HỌC

Bài đăng trong kỷ yếu Hội nghị KH toàn quốc lần 1 tháng 12/2016 về "Nghiên cứu và ứng dụng khả năng đặc biệt của con người" do Viện NC&ƯD tiếm năng con người chủ trì tổ chức với sự cộng tác của 10 đơn vị NCKH những nội dung tương đồng.

NGHIÊN CỨU TÂM LINH VIỆT:
MỘT SỐ ỨNG DỤNG MỚI TRONG ĐỜI SỐNG VÀ KHOA HỌC

Phùng Văn Duân[1], Nguyễn Đức Thiện[2]

1.     Đôi nét khái quát về Tâm Linh của dân tộc Việt
Nói khái quát về Tâm Linh của dân tộc Việt, có thể diễn giải một cách nôm na như sau. TÂM LINH VIỆT bao gồm 3 yếu tố là TÂM + LINH + VIỆT.
Yếu tố thứ nhất: TÂM - đó là cái TÂM trong sáng, không tham sân si, không ích kỷ, sẵn lòng giúp đỡ mọi người, biết hy sinh lợi ích của riêng mình vì nghĩa cả đối với dân tộc, với Tổ Quốc…
Yếu tố thứ hai: LINH - đó là sự linh thiêng, linh ứng, hiển linh, giáng linh… của những vị tuy đã qua đời nhưng vẫn có ảnh hưởng rất quan trọng đối với cuộc đời của ta.
Yếu tố thứ ba: VIỆT - chính là nền tảng đạo đức Việt. Đó là nhớ ơn gia tiên của mình, nhớ ơn Tổ Tiên của dân tộc, nhớ ơn những người đã cống hiến và hy sinh cả cuộc đời mình cho dân cho nước; đó là truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây – những điều này được thể hiện rõ nhất trong Đạo Thờ Tổ Tiên của dân tộc Việt [1]; đó còn là truyền thống vun trồng cây phúc cho con cháu, tích đức tích thiện, ‘làm điều lành tránh điều dữ’, cha mẹ không ‘ăn mặn’ để cháu con không bị ‘khát nước’; đó còn là truyền thống thương yêu đùm bọc ‘đồng bào’ của mình, thương người như thể thương thân, nhiễu điều phủ lấy giá gương – người trong một nước thì thương nhau cùng…
Tâm Linh Việt chỉ có một, không có hai. “Cái MỘT” đó mới CHÍNH là cái ĐÚNG DUY NHẤT. Còn những “cái HAI” khác đều là TÀ GIAN quỷ quyệt, giả mạo, hiểm thâm, ác độc, hại nước ta hại dân ta, là kẻ thù của dân tộc Việt ta – do đó là kẻ thù của Tâm Linh Việt. Những thế lực muốn hủy diệt văn hóa Việt và làm mỏi mòn sức sống để tiêu diệt dân tộc Việt thì luôn tồn tại từ suốt mấy nghìn năm nay. Do đó bên cạnh Tâm Linh Việt luôn luôn có rất nhiều bọn tà gian quỷ quyệt giả mạo là Tâm Linh Việt để làm hại dân ta. Trong rất nhiều trường hợp tà gian đánh lừa người dân Việt bằng cách khéo trá hình, giả mạo làm Tổ Tiên của người Việt để dần dần dẫn dắt và sai khiến họ làm những việc hại nhà, hại nước, hại dân. Bởi vậy có sự đấu tranh quyết liệt giữa Tâm Linh Việt với tà gian trong suốt cả chiều dài lịch sử của dân tộc Việt.
Nghiên cứu về Tâm Linh Việt trước hết cũng giống như nghiên cứu về các mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa lá cành hoa trái với gốc rễ của cây, giữa dòng sông lớn với các mạch nguồn của nó. Do vậy nghiên cứu về Tâm Linh Việt có thể đem lại một loạt những ứng dụng quan trọng trong rất nhiều lĩnh vực đời sống và cả trong khoa học.
Trong bài này chúng tôi xin nêu một số ứng dụng mới của nghiên cứu về Tâm Linh Việt trong đời sống và khoa học.

2.    Nghiên cứu Tâm Linh Việt và một số ứng dụng mới
2.1. Nghiên cứu ứng dụng Tâm Linh Việt giúp xóa bỏ nhiều bất hạnh cho con người
Trong cuộc sống hiện nay rất nhiều người và nhiều gia đình gặp bất hạnh do vướng mắc về tâm linh. Một số bất hạnh mà con người thường gặp phải như: bị tai họa hoặc bệnh tật mà không bệnh viện nào hoặc thầy thuốc nào chữa khỏi được. Những tai họa đó gồm đủ loại: từ đau đầu, đau mắt, đau dạ dày, xương khớp, sinh sản… đến bệnh tâm thần, cờ bạc, nghiện ngập .v.v. Tai họa cũng có thể xảy ra theo kiểu khác, như: trai khôn không lấy được vợ, gái ngoan không lấy được chồng, hoặc bị lỡ dở, hoặc phải trải qua nhiều lần đò.
Có những bệnh do khiếm khuyết về sinh học, hoặc bởi lý do xã hội hoặc bởi lý do trần thế;  tạm gọi những bệnh đó là ‘bệnh dương’. Trong khi đó lại có những bệnh tật hoặc tai họa mà nguyên nhân không phải như vừa nêu ở trên, mà gây bởi tà hoặc vong bám trong người, hoặc do đất đai, long mạch bị tác động xấu, hoặc do mồ mả gia tiên bị tác động xấu, hoặc do nghiệp chướng gây bởi các đời trước trong gia tiên…; tạm gọi các bệnh hoặc tai họa như vậy là ‘bệnh âm’.
Nghiên cứu ứng dụng Tâm Linh Việt đã giúp cho rất nhiều người được chữa khỏi ‘bệnh dương’ và rất nhiều người được chữa khỏi ‘bệnh âm’.
Các bậc Thánh Thần (là Tổ Tiên của dân tộc Việt) đã hiển linh truyền dạy những phương thuốc chữa nhiều ‘bệnh dương’. Dưới đây là một vài trong số các phương thuốc mà Tổ Tiên đã giáng linh truyền dạy cho Đồng Thiên N.T.S. (B.N.) và đã được áp dụng ngay với hiệu quả thần kỳ:
Phương thuốc chữa phát ban, mẩn ngứa
Phát ban mẩn ngứa
Lấy sữa Mộc Châu (*)
Ngâm chân lúc lâu
Bỗng đâu hết ngứa
Các lứa tuổi nào
Ngâm vào khỏi hết!
(Chú ý: Dùng sữa Mộc Châu không đường!)
Phương thuốc xông mũi bị tắc cho người đang mang thai
Tắc mũi mẹ bầu
Húng rổi xông đầu
Sạch lầu tắc mũi!
Phương thuốc chữa bệnh đau nhức xương khớp
Rượu trắng ngâm với hạt cau
Đợi cho ngấm khoảng là sau một tuần
Cổ vai lưng gáy toàn phần
Nhức đau ê ẩm, tay chân tê buồn
Uống vào thông mạch đỡ luôn
Thuốc này không có bán buôn thị trường
Chẳng tốn tin của trần dương
Mang lại hiệu quả tương đương dược thần!
Còn các ‘bệnh âm’ thì chỉ có thể chữa được bằng những phương pháp thích hợp của Tâm Linh Việt (như:  trục vong tà ra khỏi người, trục vong tà ra khỏi đất ở, giải nghiệp…). Thực tế hoạt động của Trung tâm ‘Nghiên cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt’ cho thấy: chỉ tính trong năm năm 2012-2016 vừa qua đã có ngót 400 gia đình dòng tộc được hóa giải nghiệp chướng, nhiều trăm gia đình đã được trục vong tà ra khỏi đất ở và khoảng nửa nghìn người đã được trục vong tà ra khỏi người – rất nhiều người và rất nhiều gia đình đã được cứu thoát khỏi cảnh đời bất hạnh và bệnh tật.
2.2. Nghiên cứu về nghiệp chướng và ứng dụng
Nghiên cứu về nghiệp chướng và ứng dụng là một vấn đề lớn [2], sẽ được trình bày riêng trong một báo cáo khác [3]. Trong phạm vi bài này, dưới đây chúng tôi chỉ xin nêu vắn tắt.
Nghiên cứu thực chứng về nghiệp và giải nghiệp tại Trung tâm ‘Nghiên cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt’ cho thấy: Nếu một vị nào đó trong các đời của gia tiên một dòng tộc đã phạm phải lầm lỗi hoặc phạm tội nào đó (tức là đã gây nên một nghiệp) thì các con cháu thuộc nhiều đời sau của dòng tộc vẫn còn phải gánh chịu hậu quả gây bởi nghiệp này. Những hậu quả đó là những tai họa như vừa nêu ở đầu mục trên, thậm chí là mất cả mạng sống của không ít người trong mấy đời liên tiếp.
Trong năm năm qua, tại Trung tâm ‘Nghiên cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt’ có ngót 400 gia đình dòng tộc ở 24 tỉnh và thành phố cả ba khu vực miền Bắc, miền Trung và miền Nam của đất nước đã được hóa giải nghiệp chướng theo đúng phương cách mà Tổ Tiên của dân tộc đã giáng linh truyền dạy cho các Đồng Thiên. Nhờ vậy rất nhiều gia đình đã được giải thoát khỏi tai họa do nghiệp chướng, được trở về với cuộc sống bình yên.
Kết quả nghiên cứu về nghiệp chướng là một lời xác nhận không thể chối cãi về sự thực rằng “Đời cha ăn mặn thì đời con khát nước!”, đời cha ông mắc tội/lỗi/sai lầm nên cháu con nhiều đời phải chịu nghiệp. Đây là lời nhắc nhở con cháu nghiêm khắc nhất của nhiều đời cha ông của nhiều dòng tộc.
Kết quả nghiên cứu về nghiệp và giải nghiệp cũng đồng thời góp phần chấn hưng đạo đức và văn hóa ứng xử trong xã hội hiện nay, góp phần làm giảm để tiến tới xóa bỏ những tiêu cực trong nhiều khâu hành chính và quản lý hiện nay.
2.3.     Ứng dụng tâm linh trong nghiên cứu khảo cổ học
Một lĩnh vực nghiên cứu khảo cổ học có ý nghĩa rất quan trọng đối với lịch sử của dân tộc Việt ta – đó là nghiên cứu xác định vị trí mộ các bậc Tổ Tiên của dân tộc Việt. Việc ứng dụng các phương pháp tâm linh để xác định vị trí mộ các bậc Tổ Tiên của dân tộc Việt đã được những người có Tâm có Đức với cội nguồn của dân tộc triển khai từ khoảng những năm 1995, đặc biệt là từ năm 2008 đến nay, đã đem lại những kết quả quan trọng.
Trong khoảng thời gian 4 năm (2008-2012), nhóm nghiên cứu của Trung tâm ‘Nghiên cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt’ đã tiến hành 82 lần khảo nghiệm tâm linh tại hơn bốn chục vị trí mộ phần của các bậc Tổ Tiên của dân tộc Việt từ thời thượng cổ tới cách nay hai nghìn năm, với sự tham gia của gần 40 nhà ngoại cảm, tổng cộng hơn 150 lượt nhà ngoại cảm tâm linh.
Dưới đây xin nêu những kết quả sơ bộ của quá trình khảo sát tâm linh này về hơn bốn chục phần mộ của Tổ Tiên [4].
Vị trí mộ của các bậc Tổ Tiên được xác định với độ chính xác rất cao, gần như là chính xác tuyệt đối, tên của Vị Thánh (hoặc Thần) dưới mộ hoàn toàn trùng khớp với tên của Đức Ngài được ghi trong Ngọc Phả. (Phát hiện một trường hợp trong số hơn bốn chục khu mộ đã được khảo sát là không thấy có sự trùng khớp này – đó là trường hợp mộ của vua Hùng Vương thứ 18 (Hùng Duệ Vương) và người em ruột (Hùng Dực Công) không còn ở vị trí như đã ghi trong Bách Việt ngọc phả truyền thư; bởi mộ đã được người dân địa phương di dời sang vị trí khác (do sơ xuất nhầm lẫn) từ khoảng 20 năm trước thời điểm khảo sát). Các phần mộ thường đi kèm với các di tích đình, đền thờ… Các nhà ngoại cảm tâm linh đã miêu tả đúng tên mộ của vị Thần Thánh, xác định nhiều thông tin đúng như trong sách Bách Việt Ngọc phả truyền thư  đã viết. Các nhà ngoại cảm tâm linh được các bậc Tổ Tiên nói lại cho biết như ghi trong sử cổ mà họ không hề biết nội dung sử trước đó. (Ví dụ: Với phần di tích của Vua Triệu Đà: Nhiều nhà ngoại cảm tâm linh còn được nhìn thấy cả hình hài của Đức Vua và họ được biết nhiều chi tiết quan trọng như: a- Nơi chôn Đức Ngài là gò Bình Phán tại Thạch Bích; b- Nơi có lăng mộ Triệu Văn Đế (là con của Trọng Thủy và là cháu nội của Đức Ngài) là núi Tượng Cương nay thuộc Quảng Châu Trung Quốc; c-  Đức Ngài Triệu Đà và Chử  Đồng Tử là bạn mò cua bắt ốc từ thuở nhỏ; d- Đức Ngài Triệu Đà là con cháu Hùng Vương, tên của mẹ Ngài là Trần thị Quý (có 3 nhà ngoại cảm nói tên trùng nhau)… Và đặc biệt hơn nữa, trong lần đầu tiên tới khảo sát mộ Mẫu thượng Ngàn (tại quận Hà Đông, thành phố Hà Nội): khi vừa mới thắp hương lên thì lập tức có điện thoại của nhà ngoại cảm tâm linh từ Hải Dương gọi về nói luôn là ‘Mẫu đang giáng đây! Các con đã tìm đúng mộ Mẫu!’ - Mẫu đã giáng bằng lời văn rất cụ thể mặc dù nhà ngoại cảm này không hề biết về buổi khảo sát hôm đó và cũng không tham dự buổi khảo sát đó .v.v.).
Các phương pháp tâm linh cũng đã được áp dụng để kiểm tra lại các di tích đã được khai quật trước đây và điều chỉnh lại những điều chưa đúng trong quá trình khai quật khảo cổ (đã làm ảnh hưởng đến vong linh mộ phần). Cụ thể như đối với khu mộ của bảy Vị Tướng thời Hai Bà Trưng (gồm các mộ của ba anh em Thánh Mẫu Lê Chân cùng bốn anh em Ngài Đặng Xuân - chồng của Bà Trưng Nhị) ở huyện Phú Xuyên Hà Nội và đối với khu mộ của Bát Bộ Kim Cương (tức là tám người cậu của Đức Ngài Kinh Dương Vương) ở quận Hà Đông Hà Nội.
Các phương pháp tâm linh đã được ứng dụng để xác định niên đại của di tích cổ đại (như hang Thánh Hóa ở Kinh Môn, Hải Dương, mộ Đức Ngài Nguyễn Long Cánh và con Ngài là Ông Hoàng Bơ ở Nguyệt Áng huyện Thanh Trì, Hà Nội.v.v.).
Ứng dụng các phương pháp tâm linh để nghiên cứu khảo cổ là một cách làm việc thực sự mới, có hiệu quả rất cao, tiết kiệm được nhiều thời gian, công sức và tiền của.
2.4.     Ứng dụng tâm linh trong nghiên cứu lịch sử của dân tộc
Rất nhiều sách vở, sử liệu của nước ta đã bị mất mát (do: Đất nước bị giặc phương Bắc đô hộ trong suốt cả nghìn năm, bị nhiều nước xâm chiếm (Tầu, Pháp, Nhật); Chiến tranh tàn phá, mất mát; và, do những biến động của đất nước trong một thời gian dài). Rất nhiều sách vở, sử liệu của nước Việt ta rơi vào tay kẻ thù và đã bị chúng chủ tâm thay đổi, xuyên tạc - đặc biệt là đối với phần cổ sử của dân tộc Việt – nhằm xóa bỏ tận gốc rễ hiểu biết của người dân Việt về cội nguồn của dân tộc mình để chúng dễ bề đô hộ và nuốt chửng nước Việt ta. Bởi vậy những nỗ lực nghiên cứu để tìm lại lịch sử đích thực của dân tộc là cực kỳ cần thiết và vô cùng quý giá.
Trong gần chục năm qua ở Trung tâm ‘Nghiên cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt’ đã bước đầu ứng dụng các phương pháp tâm linh trong nghiên cứu lịch sử của dân tộc; đã áp dụng cách này để:
- Nghiên cứu lịch sử dựng nước thời các Vua Hùng và trước các Vua Hùng
- Nghiên cứu các di tích thờ Đức Vua Triệu Vũ Đế và lịch sử thời nhà Triệu.
- Nghiên cứu lịch sử thời Hai Bà Trưng.
- Nghiên cứu tìm lại các bằng chứng lịch sử, các bia đá cổ, các sách sử cổ đã bị thất truyền .v.v.
Nhờ vậy đã được nghe những lời giáng dạy của Tổ Tiên khẳng định sự thật về các giai đoạn lịch sử của dân tộc (như được thể hiện rất rõ ở phần ‘Tích Trời, Tích Đất, Sử Nhà’ trong sách ‘Đạo Thờ Tổ Tiên dân tộc Việt’ [1]), về từng di tích, về nhiều bậc Tổ Tiên của dân tộc, và, về lịch sử của các vùng miền, các làng nghề.
Để minh họa điều này, dưới đây xin nêu vài dẫn chứng cụ thể:
a. Trong buổi khảo nghiệm tâm linh tại đình làng Vĩnh Ninh ở Thanh Trì Hà Nội, Thánh Mẫu Lê Chân đã giáng linh chỉ dạy cho biết rằng cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng kể từ khi bắt đầu nhen nhóm cho tới khi bị tắt hoàn toàn là kéo dài 10 năm chứ không phải chỉ có 6 năm như trong các sách lịch sử hiện nay viết.
b. Trong buổi khảo nghiệm tâm linh tại vị trí mộ của Đức Ngài Sở Minh Công (ông nội của Ngài Kinh Dương Vương): Đức Ngài đã hiển linh và nói cho nhà ngoại cảm phiên dịch lại lời Đức Ngài nói rằng Đức Ngài có 3 người con trai là Nguyễn Minh Khiết, Nguyễn Nghi Nhân và Nguyễn Long Cảnh; Đức Ngài còn cho biết là người con nào làm vua ở xứ nào của nước Việt ta [4].
c. Thánh Mẫu Lê Chân đã giáng linh chỉ dạy cho biết về di tích Đền Thờ Đức Ngài ở Hải Phòng khi xưa.
v.v…
Việc ứng dụng Tâm Linh Việt trong nghiên cứu lịch sử của dân tộc ta có một điểm mạnh nổi bật mà các phương pháp nghiên cứu khác không thể có được. Đó là người nghiên cứu được biết ngay kết quả! Điều này giúp cho việc định hướng nghiên cứu nhanh chóng và tìm các cơ sở khoa học khác để chứng minh cho kết quả đã được biết trước. Bởi vậy đây là con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất và đúng nhất để nghiên cứu lịch sử của dân tộc ta. Đây cũng là cơ sở quan trọng để ta hiểu thêm biết thêm về những góc khuất của lịch sử, để ta loại bỏ những điều xuyên tạc, để ta sửa lại những điều sai lệch để ta bổ sung thêm những chi tiết những khúc đoạn quan trọng làm sáng rõ lịch sử đích thực của dân tộc ta.
2.5.     Ứng dụng tâm linh trong nghiên cứu văn hóa của dân tộc
Trung tâm ‘Nghiên cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt’, việc ứng dụng Tâm Linh Việt để nghiên cứu văn hóa của dân tộc ta cũng đã bước đầu được thực hiện; cụ thể là để nghiên cứu về văn hóa trà ở thời đại Hùng Vương và thời nhà Triệu. Trong khi thực hiện khảo nghiệm cụ thể này, nhà nghiên cứu vừa mới đặt câu hỏi xong thì đã được nghe các bậc Tổ Tiên giáng linh qua các Đồng Thiên giảng giải cặn kẽ ngay tức khắc mặc dù những người trần này còn chưa qua hết cấp 1 cấp 2 của bậc học phổ thông và họ cũng chưa biết văn hóa trà là gì.
Thật đáng trân trọng biết bao những nỗ lực ứng dụng Tâm Linh Việt để được nghe những lời giáng dạy quý giá của Tổ Tiên dẫn dắt chúng ta đi tìm lại nền văn minh đã bị mất hoặc đã bị đánh cắp mất của dân tộc Việt ta – ví dụ như: chữ Việt cổ, văn minh lịch pháp, văn minh lúa nước, văn minh y dược, văn minh dự báo v.v. ..mà Tổ Tiên ta đã sáng tạo nên thậm chí là từ dăm-bảy nghìn năm trước [1].
2.6.     Ứng dụng tâm linh trong quy hoạch và xây dựng các khu đô thị và khu công nghiệp
Tất cả những gì chúng tôi quan sát được và ghi nhận được trong suốt ba năm ròng rã liên tục thực hiện ‘nghiên cứu thực chứng về nghiệp và giải nghiệp’ đã cho thấy một thực tế không lay chuyển được; đó là: Chết không phải là đã hết! Chết không có nghĩa là sẽ chẳng còn có chuyện gì diễn ra sau khi chết! Và, ‘LINH HỒN của các họ gia KHÔNG BAO GIỜ MẤT mà là VẪN LINH’! [2,3].
Sau khi một người chết thì thân xác mất đi nhưng linh hồn thì không mất mà vẫn tồn tại  và ta thường gọi là vong hoặc vong linh. Nhiều vong thường vẫn trú ngụ ở nơi đất mà thân xác của họ nằm lại, và đó được coi là ‘nhà’ là ‘đất ở’ của họ. Trong thực tế, hai thế giới (= hai ‘cõi’) âm và dương đồng thời tồn tại; chỉ có điều là hầu hết chúng ta không nhìn thấy được các vong (âm) mà thôi. Trong nhiều trường hợp đất ở của người trần (dương) có khi cũng là nơi trú ngụ của không ít vong âm (ngay cả khi xương cốt của thân xác họ có thể đã tan biến hết!); mà trong phần lớn các trường hợp thì ‘người âm’ có thể đã ‘đến ở’ đất này sớm hơn người trần chúng ta (cho nên cái lý họ là ‘chủ đất’ còn mạnh hơn cái lý là chủ đất của người trần!). Bình thường thì hai bên âm và dương ‘cùng chung sống hòa bình’ với nhau; nhưng cũng không hiếm trường hợp xảy ra ‘va chạm’ hoặc thậm chí ‘xung đột’; mà một trong số những nguyên nhân có thể là do người trần dương làm những việc gây hại cho sự bình yên của ‘người âm’ – ví dụ như: đào bới, san ủi, gây chấn động mạnh .v.v. hoặc thậm chí làm ‘mất nhà mất đất ở’ của ‘người âm’.
Việc xây dựng những công trình như các khu đô thị và khu công nghiệp .v.v. cũng có thể là một nguyên nhân như thế - làm mất nhà mất đất ở của rất nhiều người âm. Do đó làm cho rất nhiều người âm có thể phản kháng mạnh mẽ với người trần. Sự phản kháng mạnh mẽ của người âm có thể dẫn đến không ít hậu quả tai hại cho cuộc sống của người trần.
Vấn đề tâm linh liên quan tới việc xây dựng các khu đô thị và khu công nghiệp .v.v. như vừa nêu trên không thể coi thường và càng không thể giải quyết một cách thô bạo theo kiểu thấy xương cốt thì bốc đi nơi khác được; bởi lẽ:
- Cái lý nhiều người âm là chủ đất có thể còn mạnh hơn rất nhiều so với cái lý người trần dương là chủ đất (vì họ đã ‘đến ở’ đất đó có thể rất lâu trước người trần dương!).
- Người trần dương lấy quyền gì để ‘cưỡng chế’ đuổi người âm ra khỏi ‘nhà’ của họ mà thậm chí không hề có một thỏa thuận nào về sự ‘đền bù’ cho người âm? ([i])
- Xương cốt của thân xác rất nhiều người âm có thể đã tan biến không còn dấu vết từ lâu trước khi họ bị người trần dương ‘cưỡng chế đuổi ra khỏi nhà’. Những người âm này sẽ trú ngụ vất vưởng tại đâu khi bị ‘mất đất mất nhà’?
v.v…
Tổ Tiên dân tộc Việt ta là người đã sáng tạo ra nền văn minh lúa nước; mà những người làm lúa nước thì luôn biết sống hòa hợp với môi trường. Chúng ta - người trần dương - cùng với người âm đều là những thành phần của môi trường và đều cùng tồn tại trong môi trường. Bởi vậy ‘vấn đề nhà đất’ giữa người dương với người âm cần phải được xử lý theo đúng truyền thống và tinh thần hòa hợp của Tổ Tiên dân tộc ta.
Chúng tôi luôn nghĩ rằng vấn đề liên quan đến tâm linh ở nước ta thì phải được giải quyết theo đúng đường, đúng lối của Tâm Linh Việt. Đối với việc quy hoạch và xây dựng các khu đô thị và khu công nghiệp .v.v. cũng rất cần phải làm như vậy, không thể để tái diễn những trường hợp làm tổn hại sự bình yên của người âm và đặc biệt là vô lễ xúc phạm các bậc Tổ Tiên của dân tộc ([ii]).
3.    Kết luận
Nhờ có truyền thống uống nước nhớ nguồn mà dân tộc ta có ĐẠO THỜ TỔ TIÊN. Người Việt ta thành tâm theo Đạo Thờ Tổ Tiên, luôn thành tâm kính nhớ tới Tổ Tiên, nghe theo Tổ Tiên sống tu tâm gột đức, tích đức tích thiện, nên thường được Tổ Tiên giáng linh chỉ dạy và dẫn dắt. Đó là một phúc lớn của chúng ta.
Tổ Tiên là chỗ dựa thiêng liêng nhất và vững chắc nhất cho mỗi người con của dân tộc Việt chúng ta. Thành tâm tin tưởng vào Tổ Tiên, tin tưởng vào Tâm Linh Việt và ứng dụng Tâm Linh Việt thì chúng ta:
- Xóa bỏ được bất hạnh cho biết bao gia đình; đồng thời góp phần chấn hưng đạo đức và văn hóa ứng xử trong xã hội hiện nay, góp phần làm giảm để tiến tới xóa bỏ những tiêu cực trong nhiều khâu hành chính và quản lý hiện nay!
- Có cơ sở quan trọng để ta hiểu thêm biết thêm về những góc khuất của lịch sử, để ta loại bỏ những điều xuyên tạc, để ta sửa lại những điều sai lệch, và, để ta bổ sung thêm những chi tiết những khúc đoạn quan trọng làm sáng rõ lịch sử đích thực của dân tộc ta!
- Biết đi đúng đường đúng hướng để sớm tìm lại được nền văn minh đã bị mất hoặc đã bị đánh cắp mất của dân tộc Việt ta mà Tổ Tiên ta đã sáng tạo nên thậm chí là từ dăm-bảy nghìn năm trước!
- Biết xây dựng cuộc sống hòa hợp với môi trường, hòa hợp với các dân tộc khác trên thế giới đồng thời vẫn vững vàng gìn giữ được bờ cõi thiêng liêng mà Tổ Tiên đã tạo lập nên từ mấy nghìn năm trước!
Cùng với Đạo Thờ Tổ Tiên, Tâm Linh Việt là cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt chúng ta. Tôn kính Tổ Tiên, nghe theo và làm đúng theo những lời giáng dạy của Tổ Tiên – cũng chính là chúng ta nối gót được Tổ Tiên, góp phần làm tăng thêm sức mạnh quật cường của dân tộc Việt ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.    Trung tâm ‘Nghiên cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt’. Đạo Thờ Tổ Tiên dân tộc Việt. Nhà Xuấ bản Hồng Đức. Hà Nội, 1-2016.
2.    Phùng Văn Duân và Nguyễn Đức Thiện. Báo cáo đề tài ‘Nghiên cứu thực chứng về nghiệp và giải nghiệp’. Trung tâm ‘Nghiên cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt’. Hà Nội, 2015.
3.     Phùng Văn Duân và Nguyễn Đức Thiện. ‘Nghiên cứu thực chứng về nghiệp và giải nghiệp’. Hội nghị khoa học toàn quốc “Nghiên cứu và ứng dụng khả năng đặc biệt của con người”. Hà Nội, 13-12-2016.
Đào Vọng Đức và Nguyễn Đức Thiện (Trung tâm ‘Nghiên cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt’). Xác định mộ một số bậc Tổ Tiên của dân tộc bằng các phương pháp tâm linh. (Báo cáo tại Hội thảo về các dòng họ Việt, -2016)
([1]) - Ghi chú:   Chúng tôi đã tham dự và chứng kiến buổi trao đổi của một vị chủ đất người dương xin vong linh của một cụ già (= ‘người âm’, hiện nay không còn con cháu ở Việt Nam) cho phép được chuyển mộ của cụ đi nơi khác để gia đình xây dựng nhà ở. Ngay từ đầu cuộc trao đổi, vị chủ đất người dương đã nghiêm trang hứa sẽ xây mộ đẹp và hàng năm hương khói, Tết nhất tử tế cho cụ; nhưng cụ vong không tin và cũng không muốn đi khỏi đất đó! Xin năm lần bảy lượt rồi, vị chủ đất người dương còn phải vẽ cho cụ vong xem sơ đồ vị trí mộ ở nơi mới cụ sẽ chuyển đến đẹp như thế nào, vui thế nào… Sau khi cụ vong đồng ý cho chuyển mộ cụ đến nơi mà cụ chấp thuận, vị chủ đất người dương còn phải xin cụ duyệt cho kiểu dáng và kích thước cụ thể ngôi mộ sẽ xây; rồi còn phải xin cụ duyệt cho kiểu dáng và kích thước cụ thể ngôi mộ sẽ xây; rồi còn phải xin cụ duyệt cho ngày chuyển mộ.v.v. Mộ được chuyển sau khi cụ vong vui vẻ chấp thuận các đề nghị của vị chủ đất người dương. Kể từ khi chuyển mộ này đến nay đã qua hai cái Tết; mỗi lần gặp chúng tôi vị chủ đất người dương đều nhắc lại là đã làm đúng theo lời hứa với cụ vong.
([1]) - Ghi chú [4]:   Phường Phú La (thuộc quận Hà Đông, TP Hà Nội) đã là nơi có mộ của Đức Thánh Mẫu Thượng Ngàn. Tại đây đã có cả một quần thể di tích, có miếu thờ, cây đa cổ thụ, giếng nước… nhưng khi làm khu đô thị thì chính quyền địa phương cùng chủ đầu tư dự án vẫn san phẳng tất cả bất chấp sự phản đối của nhân dân. Trong một buổi khảo nghiệm tâm linh tại đây, Đức Thần Hoàng của làng đã giáng nhập trực tiếp vào một người dân làng và Ngài cho biết: Thánh Thần Việt Nam đã xét xử và ghi tội của những người phá mộ của Đức Thánh Mẫu Thượng Ngàn. Chỉ chưa đầy 6 tháng sau thì: · Bí thư đảng phường này vì bị khiếu kiện nên mất chức và có thể bị truy tố hình sự; · Vợ của giám đốc chủ dự án thì bị phát hiện là mắc bệnh ung thư; · Chủ thầu cố tình đưa xe vào san ủi thì bị chết bởi tai nạn giao thông. Những sự kiện này chỉ là ngẫu nhiên hay đó chính là lời báo trước Đức Thần Hoàng đã linh ứng?!


[1] PGS TS, Hội đồng Khoa học Trung tâm nghiên cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt
[2] TS, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét