MỘT NGHIÊN CỨU THỰC CHỨNG VỀ NGHIỆP VÀ GIẢI NGHIỆP
(THEO PHƯƠNG
CÁCH CỦA CÁC NHÀ NGOẠI CẢM TÂM LINH)
1. Tính cấp thiết của nghiên cứu thực chứng về nghiệp
và giải nghiệp
Câu hỏi ‘Liệu có
hay không có nghiệp chướng, nghiệp duyên, duyên tiền kiếp và duyên âm?’ không
phải là mới, mà đã ám ảnh con người trần thế từ bao đời nay. Đáng tiếc là đến
nay vẫn chưa có được một câu trả lời rõ ràng, dứt khoát và khoa học cho câu hỏi
này! Trong thực tế, từ xưa tới nay người ta cũng đã và đang làm một việc gọi là
‘giải nghiệp’, mà cụ thể là giải nghiệp chướng, giải nghiệp duyên, giải duyên
tiền kiếp và giải duyên âm. Vậy, nếu các ‘nghiệp’ và ‘duyên’ này là có thật,
cũng như việc ‘giải’ các nghiệp đó là có thật, thì liệu có cách làm nào là
khách quan, là xác thực hay không? Và, làm thế nào để biết được rằng cách làm
đó là khách quan, là xác thực? Cũng rất đáng tiếc là cho đến nay vẫn chưa có một
nghiên cứu khoa học nào là tương đối hoàn chỉnh và đủ tin cậy để trả lời được
các câu hỏi đó! Chính vì vậy nên có không ít người đang lợi dụng hoạt động tâm
linh để lừa đảo và làm giàu bất chính. Không ít người dân do thiếu hiểu biết, lại
bức xúc vì tai ương sầu não nên nghe theo những người này; do đó bị hao tiền tốn
của mà vẫn không giải quyết được những mắc mớ liên quan tới lĩnh vực tâm linh của
bản thân và của gia đình mình. Điều này làm cho nhiều người, nhiều gia đình đã
bị đau thương vật vã bởi những vướng mắc về tâm linh thì nay lại càng thêm bức
bối khổ đau, gây thêm nhức nhối trong xã hội.
Nghiên
cứu thực chứng về nghiệp và giải nghiệp sẽ góp phần đem lại câu trả lời nghiêm
túc, xác đáng và khoa học cho những vấn đề nêu trên, góp phần đem lại sự bình
yên cho nhiều người và nhiều gia đình đang bị vướng mắc liên quan tới lĩnh vực
tâm linh, qua đó góp phần làm cho xã hội thêm lành mạnh.
Nghiên
cứu thực chứng này được thực hiện trên cơ sở sử dụng phương pháp nghiên cứu thực
chứng, đồng thời tiếp cận các đối tượng nghiên cứu một cách trực tiếp, với số
lượng hơn 300 “mẫu” - mỗi “mẫu” nghiên cứu là toàn bộ quá trình thực hiện
việc ‘giải nghiệp’ cho một gia đình/dòng tộc/dòng họ. Các gia đình/dòng tộc/dòng
họ này đến từ nhiều địa phương của 24 tỉnh và thành phố ở cả ba miền (bắc,
trung, nam) của nước ta [1].
Nghiên
cứu thực chứng này đã được thực hiện với sự tham gia của 16 (mười sáu) nhà ngoại
cảm tâm linh từ 8 (tám) Điện Tâm Linh Việt (xem thêm trong báo cáo [2]), và, với
sự tham gia của khoảng một nghìn rưởi lượt nhà ngoại cảm tâm linh.
2.
Các loại nghiệp để lại hậu quả mà các đời sau phải gánh chịu
Nghiên cứu thực
chứng này cho thấy có những thuật ngữ
thường được dùng như ‘nghiệp’, ‘nghiệp chướng’, ‘nghiệp duyên’, ‘duyên tiền kiếp’,
‘duyên âm’. Trong bài này, các thuật
ngữ đó được hiểu như sau:
·‘Nghiệp’ được hiểu là những ràng buộc đeo
bám dai dẳng trong suốt một thời kỳ dài hoặc trong suốt cả cuộc đời của một người
và thậm chí trong suốt cả cuộc đời của nhiều đời con cháu của người đó do hành
động lầm/lỗi/tội lỗi mà người đó đã mắc phải. ·‘Nghiệp chướng’ được hiểu là những ràng
buộc có hại đeo bám dai dẳng trong cuộc đời của một người và thậm chí trong suốt
cả cuộc đời của nhiều đời con cháu của người đó do hành động lầm/lỗi/tội lỗi mà
người đó đã mắc phải. Tùy theo mức độ tội lỗi nặng nhẹ, ‘nghiệp chướng’ có thể
phải được ‘trả’ bằng bị bệnh, bị tật, bị mất tiền bạc, bị mất sản nghiệp, bị
tai nạn .v.v., hoặc phải trả bằng cả tính mạng của nhiều đời con cháu (bị chết
yểu, bị chết do tai nạn thảm khốc, bị đột tử, bị giết, bị chết bệnh đau đớn…).
Còn bản thân người đã gây nên nghiệp thì chết rồi mà chẳng được yên; bởi khi ở
‘cõi Âm’ họ không những có thể bị giam trong ngục, mà còn bị day dứt dày vò vì
phải chứng kiến cảnh mấy đời con cháu bị đau đớn khổ sở do hành động lầm/lỗi/tội
lỗi mà người đó đã gây ra. · ‘Nghiệp duyên’ được hiểu là “nghiệp’ do mắc phải lỗi lầm trong chuyện
tình duyên. Lỗi lầm đó có thể là yêu nhau tha thiết, đã thề non hẹn biển mà
quên hẹn sai thề, làm người ta đợi chờ lỡ dở cả cuộc đời hoặc phải chịu cảnh
duyên phận bẽ bàng, hẩm hiu hoặc sinh con ra mà chẳng được làm vợ .v.v.. Lỗi lầm
đó cũng có thể là ham mới bỏ cũ, hoặc ép duyên người khác hay là ép duyên con
cái… Nghiệp duyên có thể dẫn tới những hậu quả như: trai khôn không lấy được vợ,
gái ngoan không lấy được chồng; con trai con gái phải qua nhiều lần đò; trai muộn
vợ, gái muộn chồng; hoặc có vợ có chồng mà cũng như không; bị bệnh đau tim, đau
ngực, bệnh huyết áp.v.v., hoặc thậm chí phải trả nghiệp duyên bằng cả mạng sống
của con cháu. · ‘Duyên tiền kiếp’ được hiểu là duyên nợ từ kiếp trước. Kiếp trước
hai người đã hẹn ước không chỉ là vợ chồng chung sống với nhau cho tới khi ‘đầu
bạc răng long’ mà sang tận kiếp sau cũng sẽ vẫn là vợ chồng thủy chung. Bây giờ
một người trở lại trần dương (quên mất lời hẹn ước thủy chung từ kiếp trước!),
còn ‘người kia’ ở bên âm nhưng không quên lời hẹn ước thủy chung đó nên vẫn bám
theo ‘người trần’, làm ‘người trần’ không thể lấy vợ /lấy chồng/, hoặc không thể
có cuộc sống vợ chồng bình thường được. Suy
cho cùng thì ‘duyên tiền kiếp’ cũng là một loại nghiệp duyên, chỉ có điều là nó
gắn với lời hẹn ước từ kiếp trước mà thôi. Người có/vướng duyên tiền kiếp
chính là người đã mắc lỗi lầm bởi làm sai lời hẹn ước thủy chung từ kiếp trước.
Chính người này là người duy nhất phải gánh chịu trực tiếp hậu quả của duyên tiền
kiếp. ·‘Duyên âm’ được hiểu là kết quả của sự
yêu/thích/say đắm một chiều của ‘người âm’ (hay còn gọi là ‘vong’) đối với ‘người
trần’. Vong này muốn giữ người trần đó cho riêng mình, nên không cho người đó lấy
người khác làm vợ/làm chồng/ bằng cách làm cho các ‘đối tượng’ của người đó rời
xa hoặc không thể nâng quan hệ với người đó lên mức vợ chồng được, hoặc nếu người
đó đã lấy vợ/lấy chồng/ thì cuộc sống vợ chồng cũng không được bình thường mà gặp
nhiều trắc trở. Người vướng duyên âm là nạn nhân của vong âm, và, là người duy
nhất phải gánh chịu trực tiếp hậu quả của duyên âm.
2. Nghiên cứu thực chứng về giải nghiệp theo phương
cách của các nhà ngoại cảm tâm linh
Dưới đây chúng
tôi trình bày những kết quả nghiên cứu thực chứng về nghiệp và giải nghiệp với
sự tham gia của các nhà ngoại cảm tâm linh đã nêu ở cuối mục 1.
3.1. Trình
tự thực hiện một đàn lễ giải nghiệp
Đàn
lễ giải nghiệp
cho gia tiên của một dòng họ được thực hiện
tại một Điện Tâm Linh Việt với sự tham gia của một nhóm các nhà ngoại cảm
tâm linh (thường là từ 4-5 người trở lên) và một số người (là con cháu) của
dòng họ này. Trước khi thực hiện đàn lễ
vài ngày hoặc một vài tuần, một người thay mặt con cháu của dòng họ cung cấp
tên tuổi và địa chỉ nhà ở của gia đình để nhà ngoại cảm thủ nhang của Điện này
xin Hội đồng Phật Thánh Thần của nước Việt Nam cho biết một số thông tin sơ bộ
(về các nghiệp mà gia tiên của dòng họ này đã mắc phải) để viết sẵn các sớ cần
thiết bằng chữ Thiên và chữ Việt hiện nay. Đàn
lễ giải nghiệp gồm 14 bước và các
khâu việc như sau:
1. Nhà ngoại cảm tâm linh trưởng đàn lễ
(thường là thủ nhang của một Điện Tâm
Linh Việt) đọc sớ trình lên Hội đồng Phật Thánh Thần của nước Việt Nam để xin
phép được thực hiện đàn lễ giải nghiệp
giúp dân tại Điện này.
2. Trưởng đàn lễ đọc sớ trình lên Hội đồng
Phật Thánh Thần của nước Việt Nam ngự tại Điện này để mời các Tòa các cấp các
Ban của Hội đồng giáng đàn làm việc và mời (các ‘vong linh’ /các ‘linh hồn’/
thuộc) gia tiên của dòng họ đang được xem xét giải nghiệp về Điện dự lễ.
3. Hội đồng Phật Thánh Thần và
gia tiên của dòng họ cho biết thông tin về nghiệp mà một hoặc vài vị trong các
đời của gia tiên đã phạm phải. Thông tin được truyền cho trưởng đàn lễ và cũng
có thể truyền cho một vài nhà ngoại cảm tâm linh khác nữa nếu cần thiết. Thông
tin này gồm những nội dung như: vong cụ ông hay cụ bà ở đời thứ mấy của gia
tiên đã gây ra nghiệp gì, hiện đang “bị giam tại cửa ngục” nào (phòng nào, như
thế nào) ở tầng ngục thứ bao nhiêu? (Vong ở đời thứ mấy là được kể ngược từ đời
của người đang sống mà ghi tên đứng sớ xin được giải nghiệp cho gia tộc. Người
đứng sớ được tính là thuộc đời thứ 1; vai bố mẹ của người này là đời 2; vai ông
bà nội của người này là đời 3 .v.v. Cứ thế tính ngược trở lên).
4. Khi nhận được thông tin vừa
nêu trên, trưởng đàn lễ liền viết sớ xin Hội đồng Phật Thánh Thần cho các vong
đang bị giam tại ‘cửa ngục’ và ‘tầng ngục’ như vừa nêu được tạm rời khỏi ngục để
tới Điện này dự lễ (để tự khai báo cụ thể trước Tòa về trường hợp mình đã gây
nghiệp như thế nào, làm mấy đời con cháu ở trần gian đã phải gánh chịu đau khổ
trả nghiệp này như thế nào). Sớ này được hóa ngay sau khi trưởng đàn lễ viết
xong.
5. Trưởng đàn lễ đọc thần chú của
mình và xin Hội đồng ‘luận công, luận tội’ các vong vừa được nhắc tới. (Nêu rõ
ràng cụ thể: Nghiệp này là do vong đã mắc tội gì? Đã trả mấy đời rồi? Còn phải
trả mấy đời nữa?).
6. Trưởng đàn lễ đọc thần chú của mình
và xin Hội đồng cho giải từng nghiệp một cho từng đời một. Sau đó nhận thông
tin từ Hội đồng cho biết nghiệp này được giải hết hay không, hay là chỉ được giảm
nhẹ - tức là chỉ được chuyển từ tầng ngục sâu hơn ở bên dưới lên một tầng ngục
ít sâu hơn ở bên trên, hay là nghiệp này không thể giải được mà phải gánh trả
nghiệp cho kỳ hết mới dứt được.
7. Đồng thời với bước thứ ba và từ
đó cho tới khi kết thúc lễ giải nghiệp cho một dòng họ, có ít nhất là một nhà
ngoại cảm tâm linh ghi biên bản của lễ giải nghiệp. (Các biên bản đều được viết
bằng chữ Thiên mà nhà ngoại cảm tâm linh đã được các Thầy Giáo trên Thiên dạy
cho từ lâu trước đó).
8. Đồng thời với các bước từ thứ
ba đến thứ sáu, các nhà ngoại cảm tâm linh (được sự dạy bảo và dẫn dắt của các
Thầy Giáo trên Thiên) cảm nhận rõ sự đau đớn của các vong trong gia tiên của
dòng họ này do bệnh/tật hoặc do bị giam trong ngục, và/hoặc sự đau đớn của những
người đã bị các vong này làm hại khi còn sống (như bị đánh, bị đâm, bị bắn, bị
giết…); trên cơ sở đó nói rõ là con cháu trong dòng họ này bị những bệnh gì, tật
gì hoặc tai ách gì, tai nạn gì .v.v. Các
con cháu của dòng họ ngồi tham dự lễ giải nghiệp phải trả lời rõ ràng là trong gia đình/trong chi/trong họ/ của
mình có những ai bị bệnh/tật/tai ách/tai
nạn… như thế hay là họ không biết; nếu có
– thì nói rõ đó là ai bị bệnh/tật hoặc
tai ách/tai nạn gì… và những người này có quan hệ như thế nào với người ghi tên
đứng sớ? (Chính điều này có ý nghĩa quan trọng là nó khẳng định sự xác thực
và tính thực chứng của việc giải nghiệp theo phương cách của các nhà ngoại cảm
tâm linh đã nêu ở cuối mục 1).
9. Tiếp theo bước thứ sáu, các
nhà ngoại cảm tâm linh cùng tham gia chữa bệnh cho các vong đã gây nghiệp và
các vong khác trong gia tiên của dòng họ.
10. Chữa bệnh cho các vong đã bị
người của dòng họ làm hại khi còn sống (nếu họ đã bị bệnh tật đau đớn về thể
xác). Chiêu vong cho họ khi cần thiết (nếu họ bị chết khi không ở nhà mình do tội
lỗi của các vong trong gia tiên của dòng họ đang được xét tới).
11. Nhóm nhà ngoại cảm tâm linh
cùng điền hoàn phần mộ cho các vong trong gia tiên đã gây nên nghiệp mà vừa được
giải xong. Trong nhiều trường hợp, việc điền hoàn phần mộ cũng được thực hiện
cho cả các vong khác trong gia tiên của dòng họ.
12. Các nhà ngoại cảm tâm linh cùng lễ tạ ơn Hội
đồng Phật Thánh Thần đã giáng đàn làm việc và chỉ dạy, dẫn dắt các nhà ngoại cảm
tâm linh hoàn thành nhiệm vụ. Tiếp đó, một người thay mặt con cháu của dòng họ
vái sớ tạ ơn Hội Đồng.
13. Hóa tất cả các sớ đã được viết trong
suốt quá trình thực hiện đàn lễ.
14. Trên cơ sở các nghiệp mà vong
ở những đời trước trong gia tiên đã mắc phải, các nhà ngoại cảm tâm linh phân
tích, giảng giải, nhắc nhở con cháu của dòng họ cần phải tu tâm sửa đức, sống
nhân nghĩa, tích đức tích thiện – ‘trồng cây phúc’ cho các đời con cháu về sau.
Bởi đó là cách tốt nhất và hiệu quả nhất để tự cứu bản thân mình, để giúp cho
gia tiên và cho nhiều đời con cháu về sau.
Cũng có trường hợp
tội/lỗi rất nặng nên nghiệp không được giải mà chỉ được giảm nhẹ một chút.
Không ít trường hợp nghiệp quá nặng chưa thể giải một lần mà xong ngay được; có
khi phải giải tới vài ba lần mới được. Trong những trường hợp như vậy, lần giải
sau thường phải cách lần trước ít nhất là một trăm ngày. Con cháu trong dòng họ
càng sống có Tâm có Đức, càng nhân nghĩa, càng tích Đức tích Thiện liên tục thì
việc giải nghiệp cho gia tiên càng sớm đạt được kết quả tốt đẹp.
Đối
với duyên tiền kiếp và duyên âm, sau khi xong bước thứ 2, trong nhiều
trường hợp các nhà ngoại cảm tâm linh phải đưa vong âm đang bám theo người mắc
duyên này ra khỏi người đó rồi mới cắt giải được.
3.2. Số trường hợp
nghiên cứu và tổng số lần mắc nghiệp
Trong
thời gian từ tháng 9 năm 2012 đến tháng 3 năm 2015, đã nghiên cứu 315 trường hợp giải nghiệp cho các gia đình thuộc nhiều
dòng họ khác nhau ở 24 tỉnh và thành phố
từ khắp cả ba miền của nước ta (từ Điện Biên, Lào Cai, Quảng Ninh, đến Nghệ An,
Hà Tĩnh, rồi Lâm Đồng, Sài Gòn, Đồng Nai…). Tổng số lần mắc các loại nghiệp
của tất cả 315 trường hợp này tính gộp lại là 539 lần.
3.3. Về 54 nghiệp
và phân bố theo nghiệp
Những
nhầm, những lỗi, và, thậm chí cả những tội lỗi mà con người mắc phải (dù là vô
tình hay cố ý) có thể thuộc rất nhiều loại khác nhau, mà mỗi loại lại có những
cung bậc cao thấp khác nhau, khó mà thống kê chi li hết được. Trong khuôn khổ
nghiên cứu này, chúng tôi tạm xếp các nhầm/lỗi/tội lỗi (mà người các đời trước
đã mắc phải) theo 54 nhóm nhỏ gọi là 54 nghiệp. (Xin xem danh sách cụ thể của
54 nghiệp này tại chú thích 1 ở cuối bài). Nghiên cứu thực chứng 315 trường hợp
giải nghiệp cho thấy:
-
Nghiệp được xem xét trong vòng 10 (mười) đời tính ngược về trước kể từ đời thứ
nhất là đời của người đứng tên xin được giải nghiệp cho gia tộc/dòng họ.
-
Trong hầu hết các trường hợp, đời trước trong gia tiên mới chỉ phạm phải một
nghiệp mà con cháu đã phải gánh chịu nhiều hậu quả khác nhau.
-
Có gia đình/dòng họ/ phạm phải vài nghiệp khác nhau.
-
Có trường hợp con cháu của dòng họ chưa gánh trả xong nghiệp cũ thì đã lại mắc
thêm nghiệp mới rồi. (Trường hợp này được gọi là ‘nghiệp chồng nghiệp’).
Các
số liệu thực chứng từ nghiên cứu này cho thấy như sau:
1. Có 11 nghiệp liên quan đến tâm linh. Tính
trung bình cứ trong 100 trường hợp/gia đình/ dòng họ/ mắc nghiệp các loại thì
có tới một phần tư (1/4) số này là mắc các nghiệp liên quan đến tâm linh. Tính
trung bình cứ trong 100 lần phạm tội/lỗi gây nghiệp các loại, thì có từ 14 đến
15 lần phạm tội/lỗi gây nghiệp liên quan đến tâm linh.
2. Có 8 nghiệp mà người có chức có quyền hoặc có
trách nhiệm và những người liên quan thường mắc phải. Tạm gọi nhóm này là
nhóm các nghiệp bởi có chức quyền và liên
quan. Tính trung bình cứ trong 100 trường hợp/gia đình/ dòng họ/ mắc nghiệp
các loại thì có tới một phần tư (1/4) số này là mắc các nghiệp bởi chức quyền
và liên quan. Tính trung bình cứ trong 100 lần phạm tội/lỗi gây nghiệp các loại,
thì có từ 14 đến 15 lần phạm tội/lỗi gây nghiệp bởi có chức quyền và liên quan.
3. Có 2 nghiệp làm hại mạng sống hoặc thân thể của
người khác (cụ thể là: giết người / làm người khác phải chết; đánh hoặc làm
người khác bị đau, ốm, thương, tật). Tính trung bình cứ trong 100 trường hợp/gia
đình/ dòng họ/ mắc nghiệp các loại thì có tới một phần tư (1/4) số này là mắc
các nghiệp làm hại mạng sống hoặc thân thể
của người khác. Tính trung bình cứ trong 100 lần phạm tội/lỗi gây nghiệp
các loại, thì có từ 14 đến 15 lần phạm tội/lỗi gây nghiệp liên quan tới những
việc gây hại đến tính mạng hoặc thân thể của người khác.
4. Có 12 nghiệp liên quan đến tình duyên (chưa kể
duyên tiền kiếp). Tính trung bình cứ trong 100 trường hợp/gia đình/ dòng họ/ mắc
nghiệp các loại thì có tới một phần hai (1/2) số này là mắc các nghiệp liên
quan đến tình duyên. Tính trung bình cứ trong 100 lần phạm tội/lỗi gây nghiệp
các loại, thì có trên 29 lần phạm tội/lỗi gây nghiệp liên quan đến tình duyên.
5. Có 19 nghiệp gây bởi tội/lỗi/lầm trong quan hệ với
những người khác trong xã hội và bởi sự bất hiếu của con cái đối với cha mẹ.
Trong nhóm này có một số nghiệp sau đây rất đáng để mỗi người chúng ta phải suy
ngẫm:
a. Trước hết phải kể tới nghiệp do vô cảm/làm ngơ,
không cứu giúp người gặp nạn. Người gặp nạn ở đây có thể là người
đang trong tình huống nguy hiểm tới mạng sống – như chết đuối hoặc sắp chết đuối,
đang đói lả, đang rét cóng, đang bị bệnh tình vật vã, bị tai nạn, bị đe dọa tới
tính mạng; hoặc bị hành hung, bị cướp bóc, bị cưỡng bức, bị chà đạp .v.v. Nếu
mình thấy hoặc gặp những trường hợp như vậy mà không tìm cách cứu giúp hoặc
không tìm cách trình báo cơ quan có trách nhiệm hay người có trách nhiệm để cứu
giúp người bị nạn và/hoặc trừng trị kẻ ác thì chính mình cũng mắc nghiệp bởi tội
vô cảm với đồng bào/đồng loại. Thật đáng tiếc là nghiệp do vô cảm/làm ngơ lại
chiếm tỷ lệ không nhỏ vì cứ trong 100 trường hợp/ gia đình/ dòng họ/ mắc nghiệp
các loại thì có từ 5 đến 6 trường hợp là mắc nghiệp do vô cảm/làm ngơ, không cứu
giúp người gặp nạn; và, cứ trong 100 lần phạm tội/lỗi gây nghiệp các loại, thì
có tới hơn 3 lần phạm tội/lỗi gây nghiệp loại này.
b. Không thể
không nhắc tới các nghiệp do mắc phải những tội/lỗi như: Đối xử tàn nhẫn /xỉ nhục/
chửi bới /nói xấu người khác; Lấn/chiếm đất công hoặc đất của nhà khác; Dối
trá/ lừa gạt/ nói sai sự thật gây hại cho người khác; Vô ơn/ lấy oán báo ân/ ăn
có nói không; ‘Bẻ hoa ghẹo nguyệt’; ‘Trêu hoa ghẹo nguyệt’; Làm nghề sát sinh
(giết mổ); Vay /mượn mà không trả hoặc không trả hết; Buôn bán /cân đo đong đếm/
điêu sai; Không công bằng /không sòng phẳng/ gây thiệt hại cho người khác; Cho
vay nặng lãi .v.v.
3.4. Nghiệp gây
bởi những đời trước và hậu quả mà các đời sau phải gánh chịu
3.4.1. Mười bảy loại hậu quả nặng nề mà các đời sau
phải gánh chịu do nghiệp gây bởi những đời trước
Ông
Cha ta vẫn thường răn dạy con cháu rằng ‘đời cha ăn mặn (thì) đời con khát nước’.
Đây là một lời tổng kết rất xác đáng của các Cụ từ quan sát thực tế nhiều đời
con cháu phải trả nghiệp do lỗi lầm của các đời trước. Nghiên cứu thực chứng về
nghiệp và giải nghiệp cho thấy:
- Có những nghiệp
mà 8-9 đời con cháu trong dòng họ phải gánh chịu mới trả hết tội của người gây
nghiệp.
- Nghiệp ‘duyên
tiền kiếp’ chỉ tác động tới chính bản thân người gây nên nghiệp này, không ảnh
hưởng
tới các đời sau. Tổng số lần mắc nghiệp
‘duyên tiền kiếp’ của tất cả 315 trường hợp đã nghiên cứu tính gộp lại là 13 lần.
- Một nghiệp xác
định nào đó (không kể ‘duyên tiền kiếp’!) có thể dẫn tới nhiều hậu quả nặng nề
khác nhau mà nhiều đời con cháu sau này phải gánh chịu (như: phải đền
mạng, chết yểu, ung thư, tâm thần, liệt .v.v. cho tới không vợ không chồng hoặc
khó có vợ/chồng, tình duyên vợ chồng éo le có cũng như không, hoặc bị lỡ dở, phải
qua nhiều lần đò, hiếm muộn con cái hoặc không có con, nghiện ngập cờ bạc rượu
chè, hay bị mất tiền mất của, hoặc sản nghiệp /gia đình/ bị lụn bại, phải sống
cơ cực, hay bị oan, bị khinh miệt, hoặc con cháu là gái thì ‘bị bẻ hoa ghẹo
nguyệt’ .v.v.). Mỗi loại hậu quả như thế
lại có rất nhiều cung bậc nặng nhẹ khác nhau (ví dụ: hậu quả ‘phải đền mạng,
chết yểu’ có thể bao gồm những cung bậc như: chết ngay từ trong bụng mẹ, mới
sinh ra đã bị chết, chết khi còn nhỏ, chết trẻ, chết đột ngột (đột tử), chết bởi
ăn nghẹn, chết do cười, chết do tai nạn thân xác không toàn vẹn đủ kiểu, thắt cổ
tự tử, nhảy xuống sông/giếng/ao/hồ/ tự tử, bị bắn chết, bị đâm chém mà chết, bị
ung thư mà chết, bị các bệnh khác mà chết .v.v.); thật khó mà kể hết được.
Bởi
vậy, các hậu quả đã gặp trong khuôn khổ nghiên cứu này được sắp xếp theo 17
nhóm khác nhau; mỗi nhóm được gọi là một hậu quả mà các đời sau phải gánh chịu
do nghiệp gây bởi những đời trước. (Xin xem cụ thể 17 nhóm hậu quả này tại Bảng
Nhân Quả NQ3 ở các trang sau).
Chú
ý rằng một nghiệp có thể dẫn tới những hậu quả mà năm-bảy đời con cháu
sau này phải gánh chịu; trong khi đó, những người đến dự lễ giải nghiệp thường
chỉ biết được về bệnh tật và tai họa của hai-ba đời kể từ bản
thân họ ngược trở lên các đời trước. Bởi vậy, để đảm bảo tính thực chứng của kết quả khảo sát, buộc phải thực hiện
‘nguyên tắc không tính tới số đời phải trả nghiệp’. Do vậy trong thực tế, số lần mà các đời con cháu phải
gánh chịu hậu quả gây bởi một nghiệp xác định nào đó còn nhiều hơn so với giá
trị thực chứng thu được trong khảo sát.
Kết
quả thực chứng về hậu quả mà các đời sau phải gánh chịu do nghiệp gây bởi những
đời trước trong gia tiên thật đáng được chú ý. Tần suất mà các đời sau phải
gánh chịu một loại hậu quả xác định nào đó thường là rất cao. Có những hậu quả
rất nặng nề. Cụ thể là:
- Chưa tính tới
số đời con cháu phải gánh chịu hậu quả mà đã thấy cứ trong 100 lần mắc nghiệp
các loại thì: · Hơn 35 lần làm con cháu các đời
sau phải đền mạng hoặc chết yểu; · Ở mức 8 lần làm
con cháu các đời sau bị bệnh ung thư; · Hơn 12 lần làm
con cháu các đời sau bị bệnh tâm thần; · Ở mức 9 lần làm
con cháu các đời sau bị liệt hoặc liệt nửa người; · Hơn 10 lần làm
con cháu các đời sau bị lỡ dở, hoặc lắm vợ lắm chồng, hoặc phải ‘qua đò’ nhiều
lần; ·
Ở mức 6 lần đối với mỗi trong số ba hậu quả là hiếm con hoặc không con, câm/điếc/mù
và nghiện/ cờ bạc /rượu chè /mất tiền của /lụn bại.
-
Những hậu quả thường gặp nhất là các loại bệnh tật ở vùng đầu và cổ (71 lần
trong số 100 lần mắc nghiệp các loại), ở vùng bụng (dạ dày, ruột, gan, thận,
bàng quang… tới hơn 58 lần), các bệnh về xương/khớp (43 lần), các bệnh về tim mạch (hơn 41 lần) .v.v.
-
Ngoài ra cũng không thể không nhắc tới những hậu quả nan giải như bệnh tật ở
các cơ quan sinh sản hoặc bị không vợ không chồng hay là khó có vợ/chồng hoặc
là có vợ có chồng mà cũng hờ hững như không, chăn đơn gối chiếc lạnh lùng quanh
năm .v.v.
3.4.2. Những hậu
quả nặng nề mà các đời sau phải gánh chịu do các đời trước đã gây nên một nghiệp
nào đó
Trích
từ Bảng Nhân Quả NQ-3:
Xác
suất của những hậu quả mà các đời sau phải gánh chịu bởi những nghiệp (tội hoặc
lỗi lầm) xác định nào đó mà đời trước trong gia tiên đã mắc phải (Q = V%)
· Ý nghĩa thực tế của giá trị V: tính trung bình, cứ
trong 100 lần mắc nghiệp N xác định nào đó, thì các đời sau phải gánh chịu hậu
quả q tới những V lần.
·
(Trong bảng: Đường gạch nối đứt đoạn
---- được hiểu là ‘chưa có số liệu này trong các trường hợp đã nghiên cứu’).
|
|||||||
NHÂN:
Nghiệp
(tội /lỗi lầm)
gây
bởi các đời trước
===>
QUẢ:
↓
|
1.
|
2.
|
3.
|
4.
|
5.
|
||
Giết
người /
làm người khác phải chết
|
Đánh
hoặc làm người khác bị đau, ốm, thương, tật
|
Lợi
dụng vị trí tham nhũng; nhận /dẫn đút lót tiền/gái
|
Có
chức có quyền
mà xử /gây ra/ việc oan sai
|
Theo
lệnh cấp trên làm việc sai trái, giết người
|
|||
Những
hậu QUẢ mà các đời sau phải gánh chịu (Q =
V%)
|
(*)
|
Số
đời sau phải gánh chịu
|
5-8
|
3-6
|
4-7
|
5-7
|
4-6
|
(1)
|
Phải
đền mạng, chết yểu
|
83,78
|
29,27
|
50,00
|
53,33
|
85,71
|
|
(2)
|
Bị
ung thư
|
24,32
|
4,88
|
12,50
|
26,67
|
14,29
|
|
(3)
|
Bị
bệnh tâm thần
|
24,32
|
24,39
|
----
|
13,33
|
42,88
|
|
(4)
|
Bị
liệt /nửa người
|
16,22
|
29,27
|
12,50
|
6,67
|
28,57
|
|
(5)
|
Bệnh
vùng đầu, cổ
|
70,27
|
95,12
|
87,50
|
53,33
|
85,71
|
|
(6)
|
Bệnh
tim mạch
|
29,73
|
43,90
|
75,00
|
20,00
|
28,57
|
|
(7)
|
Bệnh
vùng ngực
|
13,51
|
21,95
|
50,00
|
20,00
|
14,29
|
|
(8)
|
Bệnh
vùng bụng
|
54,05
|
60,98
|
100
|
93,33
|
57,14
|
|
(9)
|
Bệnh
đường sinh sản
|
----
|
----
|
12,50
|
6,67
|
----
|
|
(10)
|
Đau lưng, tay chân
|
43,24
|
53,66
|
87,50
|
46,67
|
71,43
|
|
(11)
|
Câm
/điếc /mù
|
13,51
|
2,44
|
----
|
----
|
----
|
|
(12)
|
Khó/không
có vợ/chồng; có mà cũng như không
|
2,70
|
4,88
|
----
|
6,67
|
----
|
|
(13)
|
Lỡ
dở, lắm vợ/chồng
|
5,41
|
----
|
----
|
13,33
|
----
|
|
(14)
|
Hiếm
/không con
|
5,41
|
4,88
|
----
|
13,33
|
----
|
|
(15)
|
Nghiện/
cờ bạc/ rượu chè
/mất
tiền của /lụn bại
|
5,41
|
----
|
12,50
|
----
|
28,57
|
|
(16)
|
Bị
bẻ hoa ghẹo nguyệt
|
----
|
----
|
----
|
----
|
----
|
|
(17)
|
Sống
cơ cực/ hay bị oan/ bị khinh miệt
|
2,70
|
----
|
----
|
6,67
|
----
|
Các số liệu thực
chứng về những hậu quả nặng nề mà các đời sau phải gánh chịu do các đời trước
đã gây nên một nghiệp xác định nào đó được cho trong bảng trích từ Bảng Nhân Quả
NQ-3 [1]. Do buộc phải vận dụng ‘nguyên tắc không tính tới số đời phải trả nghiệp’
nên trong thực tế, số lần mà các đời sau phải gánh chịu hậu quả còn lớn hơn nhiều
so với giá trị V thực chứng thu được.
Vì Bảng Nhân Quả
NQ-3 khá lớn, chiểm rất nhiều trang [1], trong khi báo cáo lại bị hạn chế về số
trang, nên ở đây chúng tôi chỉ trích một phần của Bảng Nhân Quả NQ-3 thể hiện
những hậu quả nặng nề gây bởi 10 nghiệp (trong số 54 nghiệp nêu trong Bảng Nhân
Quả NQ-3).
Phần
tiếp Trích từ
Bảng Nhân Quả NQ-3:
Xác
suất của những hậu quả mà các đời sau phải gánh chịu bởi những nghiệp (tội hoặc
lỗi lầm) xác định nào đó mà đời trước trong gia tiên đã mắc phải (Q = V%)
· Ý nghĩa thực
tế của giá trị V: tính trung bình, cứ trong 100 lần mắc nghiệp N xác định nào
đó, thì các đời sau phải gánh chịu hậu quả q tới những V lần.
·
(Trong bảng: Đường gạch nối đứt đoạn
---- được hiểu là ‘chưa có số liệu này trong các trường hợp đã nghiên cứu’).
|
||||||||
NHÂN:
Nghiệp
(tội /lỗi lầm)
gây
bởi các đời trước
===>
QUẢ: ↓
|
6.
|
7.
|
8.
|
9.
|
10.
|
|||
Lơ
là trách nhiệm gây thiệt hại cho người khác
|
Làm
/ xúi bẩy làm/ việc sai trái, thất đức hại người khác
|
Vu
/nghi oan/ dựng chuyện/ vu khống/ làm hại người khác
|
Làm
người khác
phải tù tội oan sai
|
Vơ
vét /chiếm /
trộm
cắp của công
hoặc của người khác
|
||||
Những
hậu QUẢ mà các đời sau phải gánh chịu (Q = V%)
|
(*)
|
Số
đời sau phải gánh chịu
|
3-4
|
3-5
|
3-4
|
3-8
|
3-5
|
|
(1)
|
Phải
đền mạng, chết yểu
|
----
|
16,67
|
72,73
|
100
|
38,10
|
||
(2)
|
Bị
ung thư
|
----
|
----
|
18,18
|
----
|
19,05
|
||
(3)
|
Bị
bệnh tâm thần
|
----
|
----
|
9,09
|
20,00
|
----
|
||
(4)
|
Bị
liệt /nửa người
|
----
|
33,33
|
18,18
|
----
|
----
|
||
(5)
|
Bệnh
vùng đầu, cổ
|
100
|
50,00
|
81,82
|
80,00
|
80,95
|
||
(6)
|
Bệnh
tim mạch
|
50,00
|
16,67
|
36,36
|
40,00
|
38,10
|
||
(7)
|
Bệnh
vùng ngực
|
33,33
|
----
|
36,36
|
----
|
19,05
|
||
(8)
|
Bệnh
vùng bụng
|
100
|
33,33
|
100
|
40,00
|
71,43
|
||
(9)
|
Bệnh
đường sinh sản
|
16,67
|
----
|
----
|
----
|
4,76
|
||
(10)
|
Đau lưng, tay chân
|
33,33
|
33,33
|
45,45
|
20,00
|
52,38
|
||
(11)
|
Câm
/điếc /mù
|
16,67
|
----
|
9,09
|
20,00
|
----
|
||
(12)
|
Khó/không
có vợ/chồng; có mà cũng như không
|
----
|
----
|
----
|
----
|
4,76
|
||
(13)
|
Lỡ
dở, lắm vợ/chồng
|
----
|
----
|
9,09
|
----
|
4,76
|
||
(14)
|
Hiếm
/không con
|
----
|
----
|
----
|
60,00
|
----
|
||
(15)
|
Nghiện/
cờ bạc/ rượu chè
/mất
tiền của /lụn bại
|
16,67
|
----
|
----
|
20,00
|
14,29
|
||
(16)
|
Bị
bẻ hoa ghẹo nguyệt
|
----
|
----
|
----
|
----
|
----
|
||
(17)
|
Sống
cơ cực/ hay bị oan/ bị khinh miệt
|
----
|
16,67
|
27,27
|
20,00
|
4,76
|
Các
ô số liệu trong Bảng Nhân Quả NQ-3 phản ánh LUẬT NHÂN QUẢ trong hầu khắp mọi mặt
đời sống của mỗi người. Do vậy có thể nói, các ô số liệu trong bảng Nhân Quả
NQ-3 chẳng khác gì những cửa sổ trên một tấm gương lớn để mỗi người soi vào thì
tự nhìn thấy được một cách rõ ràng những tai họa mà mấy đời con cháu của mình sẽ
phải gánh chịu vì phải trả nợ cho từng nghiệp (từng tội/lỗi) nếu mình mắc phải.
Vai trò cảnh báo của tấm gương soi này là ý nghĩa quan trọng hàng đầu của bảng
số liệu thực chứng NQ-3 về Nhân Quả.
3. Thảo luận về giải nghiệp và kết quả giải nghiệp
A. Giải nghiệp
là một vấn đề phức tạp và khó khăn
1. Kết quả giải
nghiệp còn phụ thuộc rất nhiều vào mức độ tội/lỗi nặng nhẹ của người đời trước
trong gia tiên. (Ví dụ: Con cháu phải gánh chịu hậu quả để trả nghiệp này trong
7 đời, nhưng mới trả được có 1 hoặc 2 đời, thì dù có làm thủ tục giải nghiệp đến
bao nhiêu lần nữa cũng sẽ chưa thể giải nghiệp này xong ngay được!).
2. Nghiệp mắc phải
là do cố ý gây tội lỗi, thì không thể giải được, mà các đời sau phải trả nghiệp
này cho bằng hết thì mới dứt được!
3. Nghiệp do đời
trước trong gia tiên gây ra, có thể các đời sau còn đang gánh trả chưa xong mà
đã lại phạm tội /lỗi, tức là lại gây nghiệp tiếp. Theo cách nói của các Cụ, đó
là “chưa hết nghiệp trước đã vướng nghiệp sau”. ‘Nghiệp chồng nghiệp’ như thế
thì không thể giải được mà phải trả cho bằng hết thì mới dứt được!
4. Như vậy, xét
về thực chất thì việc ‘giải nghiệp’ có ý nghĩa là thực hiện một số thủ tục để
‘xin được ân xá’. Kết quả soi xét (của các Tòa Thiên-Âm) là ‘được ân xá’ hay
‘không được ân xá’ thì không chỉ phụ thuộc vào phía các vong trong gia tiên đã
gây nên nghiệp, mà còn phụ thuộc cả vào các lớp con cháu hiện đang sống, đang
gánh chịu nghiệp đó ở trần dương.
5. Rốt cuộc, có
giải được nghiệp gây bởi đời trước trong gia tiên hay không còn phụ thuộc vào một
điều nữa rất quan trọng. Đó là: Các con cháu hiện đang ở trần dương sống có
TÂM, ĐỨC, NHÂN, NGHĨA hay không? Và, nếu có, thì là đến mức nào? Cho dù những
người con cháu này đã làm xong hết mọi thủ tục về giải nghiệp, nhưng nếu mọi
người trong gia tộc/dòng họ/ vẫn sống không có tâm, vẫn đức kém, vẫn không nhân
hậu, thiếu tình nghĩa, thì trong thực tế nghiệp vẫn không thể giải được.
B. Ý nghĩa của
việc giải nghiệp
Ý nghĩa của việc
giải nghiệp không chỉ là: · Để xin cho vong
của gia tiên được gỡ khỏi hình phạt, giúp cho gia tiên được nhẹ nhàng thanh thản
nơi vĩnh hằng và để giúp cho các đời con cháu ở trần dương được thoát khỏi gánh
hậu quả nặng nề bởi nghiệp do các đời trước gây ra.
Mà còn là: · Để các đời con cháu trong gia tộc/ trong
dòng họ/ biết được lỗi lầm của đời trước; nhờ đó mà quyết chí bền bỉ tu tâm sửa
tính, tích đức tích thiện, làm điều lành, tránh điều ác, tránh xa mọi lỗi lầm.
·
Việc làm giải nghiệp còn có ý nghĩa quan
trọng về giáo dục cho người đang sống ở trần dương để họ hiểu được hai điều
quan trọng dưới đây:
Một là: Sống phải có tâm, có đức, có nhân, có nghĩa. Sống
phải đúng với lương tâm thì mới tránh được hậu họa cho bản thân và cho các đời
sau.
Hai là: Sống phải biết tu tâm, gột đức; phải tích đức tích
thiện. Bởi đó chính là cách để người ở trần dương giải nghiệp cho gia tiên được
tốt nhất, hiệu quả nhất và chủ động nhất, đồng thời lại vun trồng được phúc lộc
cho con cháu sau này.
4.
Năm điều kết luận
từ nghiên cứu thực chứng này về nghiệp và giải nghiệp
· Một là: Có cơ sở vững
chắc để khẳng định rằng vấn đề “nghiệp chướng”, “nghiệp duyên”, “duyên tiền kiếp”
và “duyên âm” là có thật trong cuộc sống của chúng ta.
· Hai là: Thực hiện việc giải nghiệp theo phương cách của
các nhà ngoại cảm tâm linh (đã nêu ở mục 1 và mục 3) kết hợp được ba yếu tố rất
quan trọng; cụ thể là:
1. Yếu tố Tâm Linh (từ phía bên Âm): thông qua sự
giáng đàn làm việc của Hội Đồng Phật Thánh Thần nước Việt Nam, sự chỉ dạy và dẫn
dắt của các Thầy Giáo trên Thiên, gia tiên của gia tộc/dòng họ/ được mời về
tham gia lễ giải nghiệp tại Điện Tâm Linh Việt.
2. Yếu tố Tâm Linh (từ phía trần Dương): thông qua việc
các nhà ngoại cảm tâm linh nhận thông tin từ phía bên Âm để thực hiện việc giải
nghiệp, đồng thời đóng vai trò là cầu nối giữa hai thế giới Âm và Dương.
3. Yếu tố kiểm chứng khách quan của trần Dương: thông qua việc
con cháu trong dòng tộc/dòng họ/ trả lời các câu hỏi của các nhà ngoại cảm tâm
linh sau phần ‘luận công luận tội’ vong đã gây nghiệp và sau khi các nhà ngoại
cảm tâm linh nhận được thông tin về tình trạng của vong này. Trong các câu trả
lời đó họ cho biết rất cụ thể là: có những ai đã hoặc đang bị bệnh/tật/tai
ách/tai nạn gì hoặc làm nghề gì? Hoặc các đời trước có ai đã từng làm chức sắc
gì? Từng người trong số đó có quan hệ như thế nào với người ghi tên đứng sớ xin
giải nghiệp? vân vân...
Yếu tố thứ ba này có vai trò rất quan trọng. Bởi nó
đảm bảo tính khách quan và xác thực, tính thực chứng của việc giải nghiệp theo
cách của các nhà ngoại cảm tâm linh đã nêu.
Sự kết hợp của cả ba yếu tố vừa nêu trên cho phép
đánh giá về tính khách quan và độ tin cậy của việc giải nghiệp theo phương cách
của các nhà ngoại cảm tâm linh đã nêu.
·
Ba là: Việc
giải nghiệp theo phương cách của các nhà ngoại cảm tâm linh nêu trên không gây tốn kém tiền của của dân bởi
được thực hiện theo đúng tinh thần “Cha Mẹ thương con vô bờ bến” của Tổ Tiên
dân tộc Việt chúng ta. Người đến xin làm giải nghiệp cho gia tiên dòng họ thì
tùy tâm dâng lễ. Các nhà ngoại cảm tâm linh đến làm việc để giúp dân mà không lấy
một xu nào của dân; không ai được phép đòi hỏi và lại càng không được phép đặt
giá đối với dân. (Bởi các nhà ngoại cảm tâm linh biết rõ rằng: người làm việc
Tâm Linh mà đặt giá với dân để làm bất kỳ một việc Tâm Linh nào thì cũng đều là
mắc tội gây nghiệp).
·
Bốn là: Việc giải nghiệp theo phương cách của các nhà ngoại
cảm tâm linh nêu trên có ý nghĩa giáo dục xã hội rất tích cực theo đúng tinh thần
của Tổ Tiên dân tộc ta. Bởi trong lễ giải nghiệp theo cách này có hẳn một
bước để các nhà ngoại cảm tâm linh phân tích, giảng giải, nhắc nhở con cháu của
dòng họ cần phải tu tâm sửa đức, sống nhân nghĩa, làm điều lành, tránh điều ác,
tích đức tích thiện để ‘vun trồng cây phúc’ cho các đời con cháu về sau. Việc
này giúp con cháu của các dòng họ hiểu được và thấy rõ rằng phải làm được hai
điều sau đây: a)- Phải sống đúng với lương tâm thì mới tránh được hậu họa cho bản
thân và cho các đời sau; b)- Phải tu tâm gột đức, tích đức tích thiện để giải
nghiệp cho gia tiên được tốt nhất, hiệu quả nhất, chủ động nhất, và, để vun trồng
phúc lộc cho con cháu sau này.
·
Năm là: Kết
quả nghiên cứu thực chứng này về nghiệp và giải nghiệp cũng đồng thời góp phần
chấn hưng đạo đức và văn hóa ứng xử trong xã hội hiện nay, góp phần làm giảm để
tiến tới xóa bỏ những tiêu cực trong nhiều khâu hành chính và quản lý hiện nay.
Việc giải nghiệp theo phương cách của các nhà ngoại cảm tâm linh nêu trên góp
phần làm cho xã hội ta thêm lành mạnh kể cả trong lĩnh vực Tâm Linh cũng như
trong các lĩnh vực khác của đời sống hàng ngày.
5.
Những bài học
đúc rút được từ quá trình nghiên cứu thực chứng về nghiệp và giải nghiệp
Ba
năm ròng rã liên tục quan sát, ghi nhận, trăn trở, thực hiện nghiên cứu thực chứng
này về nghiệp và giải nghiệp đã đúc rút cho chúng tôi những bài học vô cùng thấm
thía. Thật khó để thu được những bài học này nếu không được ‘hít thở’ liên tục
trong bầu không khí thực chứng như thế. Bởi vậy, chúng tôi mong muốn được chia
xẻ cùng mọi người những bài học mà chúng tôi cho là vô cùng thấm thía đó.
Bài học thứ nhất :
Những
điều thực chứng nêu trên càng ngày càng cô đúc cho chúng tôi một bài học thấm
thía rất sâu sắc, thật rõ như ban ngày; đó là:
Chết không phải là đã hết! Và:
‘LINH HỒN của các họ gia KHÔNG BAO GIỜ MẤT mà là VẪN LINH’!
Bài học thứ hai :
Chết không có
nghĩa là sẽ chẳng còn có chuyện gì diễn ra sau khi chết! Nghiên cứu thực
chứng này cho thấy thực tế là: Sau khi chết, những vong - những linh hồn - khi sống ở trần dương đã phạm tội và gây ra
nghiệp thì đều bị trừng phạt theo đúng tội lỗi mà họ đã phạm phải. Đối với họ
thì hình phạt đau đớn nhất là phải tận mắt chứng kiến cảnh mấy đời con cháu
trong dòng tộc/dòng họ/ ở cõi trần dương liên tục bị tai ương vật vã do phải
gánh chịu những hậu quả nặng nề bởi nghiệp mà các vong đó đã gây ra khi sống ở
cõi trần.
Bài học thứ ba : Các Quan Âm làm việc nghiêm minh, theo đúng
nguyên tắc công minh, chính trực, kỷ cương.
Suốt
ba năm liên tục chăm chú quan sát kỹ càng và nghiên cứu thực chứng về nghiệp và
giải nghiệp đã cho chúng tôi một bài học nữa; đó là: Các Quan Âm làm việc rất
nghiêm minh, theo đúng nguyên tắc công minh, chính trực và kỷ cương.
Một
số trường hợp gia tộc có hai-ba đời con cháu liên tiếp rất giàu, tiền lắm của
nhiều, sắm lễ rất to, nhưng vong đã gây nghiệp nặng thì vẫn bị xử phạt nặng nề.
Mọi thứ lễ vật đều không thể ‘mua chuộc’ được các Quan Âm; bởi lẽ các Quan Âm đều
làm việc rất nghiêm minh, theo đúng nguyên tắc công minh, chính trực và kỷ
cương. Điều này cũng dễ hiểu nếu ta xem lại nhóm các nghiệp bởi có chức quyền và liên quan (gồm các nghiệp từ số 3 đến số
10) trong phần trích từ Bảng Nhân-Quả NQ-3.
Cả tám nghiệp
trong nhóm các nghiệp bởi có chức quyền và liên quan này đều là những tội rất nặng.
Cụ thể như sau:
- Nghiệp
số 3 là tội lợi dụng vị trí của mình
để tham nhũng, để nhận đút lót bằng tiền của hoặc bằng gái, hoặc là để dẫn mối
đút lót bằng tiền của hay bằng gái. Phạm tội này thì làm từ 4 đến 7 đời con
cháu phải gánh chịu những hậu quả rất nặng nề; cụ thể là tính trung bình, cứ
trong 100 lần phạm tội này thì: có 50 lần làm con cháu phải đền mạng hoặc chết
yểu; hơn 12 lần làm con cháu bị ung thư; hơn 12 lần con cháu bị liệt toàn thân
hoặc liệt nửa người; hơn 87 lần làm con cháu bị tật bệnh ở vùng đầu và cổ; 75 lần
làm con cháu bị bệnh tim mạch; 50 lần làm con cháu bị các bệnh khác ở vùng ngực;
cả 100 lần làm con cháu bị các bệnh tật ở vùng bụng; hơn 12 lần làm con cháu bị
các tật bệnh về đường sinh sản; hơn 87 lần làm con cháu bị tật bệnh ở vùng lưng
và chân tay; hơn 12 lần làm con cháu bị nghiện, cờ bạc, rượu chè, mất tiền của,
lụn bại.
- Nghiệp số 4 là tội có chức có quyền mà xử việc oan sai hoặc gây ra việc oan sai.
Phạm tội này thì làm từ 5 đến 7 đời con cháu phải gánh chịu những hậu quả rất nặng
nề; cụ thể là tính trung bình, cứ trong 100 lần phạm tội này thì: có hơn 53 lần
làm con cháu phải đền mạng hoặc chết yểu; hơn 26 lần làm con cháu bị ung thư;
hơn 13 lần làm con cháu bị bệnh tâm thần; hơn 6 lần con cháu bị liệt toàn thân
hoặc liệt nửa người; hơn 53 lần làm con cháu bị tật bệnh ở vùng đầu và cổ; 20 lần
làm con cháu bị bệnh tim mạch; 20 lần làm con cháu bị các bệnh khác ở vùng ngực;
hơn 93 lần làm con cháu bị các bệnh tật ở vùng bụng; hơn 6 lần làm con cháu bị
các tật bệnh về đường sinh sản; hơn 46 lần làm con cháu bị tật bệnh ở vùng lưng
và chân tay; hơn 6 lần làm con cháu không vợ không chồng hoặc khó có vợ chồng
hoặc có vợ có chồng mà vẫn chăn đơn gối chiếc lạnh lẽo như không; hơn 13 lần
làm con cháu lỡ dở đường tình duyên, lắm vợ lắm chồng; hơn 13 lần làm con cháu
không có con hoặc hiếm con; hơn 6 lần làm con cháu phải sống cơ cực, hay bị
oan, bị khinh miệt.
- Nghiệp
số 5 là tội theo lệnh cấp trên làm việc
sai trái hoặc giết người. Phạm tội này thì làm từ 4 đến 6 đời con cháu phải
gánh chịu những hậu quả rất nặng nề; cụ thể là tính trung bình, cứ trong 100 lần
phạm tội này thì: có hơn 85 lần làm con cháu phải đền mạng hoặc chết yểu; hơn
14 lần làm con cháu bị ung thư; 43 lần làm con cháu bị bệnh tâm thần; hơn 28 lần
con cháu bị liệt toàn thân hoặc liệt nửa người; hơn 85 lần làm con cháu bị tật
bệnh ở vùng đầu và cổ; hơn 28 lần làm con cháu bị bệnh tim mạch; hơn 14 lần làm
con cháu bị các bệnh khác ở vùng ngực; hơn 57 lần làm con cháu bị các bệnh tật ở
vùng bụng; hơn 71 lần làm con cháu bị tật bệnh ở vùng lưng và chân tay; hơn 28
lần làm con cháu bị nghiện, cờ bạc, rượu chè, mất tiền của, lụn bại.
- Nghiệp số 6 là tội lơ là trách nhiệm gây thiệt hại cho người khác. Phạm tội này
thì làm từ 3 đến 4 đời con cháu phải gánh chịu những hậu quả nặng nề; cụ thể là
tính trung bình, cứ trong 100 lần phạm tội này thì: cả 100 lần làm con cháu bị
tật bệnh ở vùng đầu và cổ; 50 lần làm con cháu bị bệnh tim mạch; hơn 33 lần làm
con cháu bị các bệnh khác ở vùng ngực; cả 100 lần làm con cháu bị các bệnh tật ở
vùng bụng; hơn 16 lần làm con cháu bị các tật bệnh về đường sinh sản; hơn 33 lần
làm con cháu bị tật bệnh ở vùng lưng và chân tay; hơn 16 lần làm con cháu bị
câm/điếc/mù; hơn 16 lần làm con cháu bị nghiện, cờ bạc, rượu chè, mất tiền của,
lụn bại.
- Nghiệp
số 7 là tội làm việc sai trái hoặc
xúi bẩy làm việc sai trái, thất đức, hại người khác. Phạm tội này thì làm từ
3 đến 5 đời con cháu phải gánh chịu những hậu quả rất nặng nề; cụ thể là tính
trung bình, cứ trong 100 lần phạm tội này thì: có hơn 16 lần làm con cháu phải
đền mạng hoặc chết yểu; hơn 33 lần làm con cháu bị liệt toàn thân hoặc liệt nửa
người; 50 lần làm con cháu bị tật bệnh ở vùng đầu và cổ; hơn 16 lần làm con
cháu bị bệnh tim mạch; hơn 33 lần làm con cháu bị các bệnh tật ở vùng bụng; hơn
33 lần làm con cháu bị tật bệnh ở vùng lưng và chân tay; hơn 16 lần làm con
cháu phải sống cơ cực, hay bị oan, bị khinh miệt.
- Nghiệp
số 8 là tội vu oan /nghi oan, dựng
chuyện, vu khống/ làm hại người khác. Phạm tội này thì làm từ 3 đến 4 đời
con cháu phải gánh chịu những hậu quả rất nặng nề; cụ thể là tính trung bình, cứ
trong 100 lần phạm tội này thì: có hơn 72 lần làm con cháu phải đền mạng hoặc
chết yểu; hơn 18 lần làm con cháu bị ung thư; hơn 9 lần làm con cháu bị bệnh
tâm thần; hơn 18 lần làm con cháu bị liệt toàn thân hoặc liệt nửa người; 82 lần
làm con cháu bị tật bệnh ở vùng đầu và cổ; hơn 36 lần làm con cháu bị bệnh tim
mạch; hơn 36 lần làm con cháu bị các bệnh khác ở vùng ngực; cả 100 lần làm con
cháu bị các bệnh tật ở vùng bụng; hơn 45 lần làm con cháu bị tật bệnh ở vùng
lưng và chân tay; hơn 9 lần làm con cháu bị câm/điếc/mù; hơn 9 lần làm con cháu
lỡ dở đường tình duyên, lắm vợ lắm chồng; hơn 27 lần làm con cháu phải sống cơ
cực, hay bị oan, bị khinh miệt.
- Nghiệp
số 9 là tội làm người khác phải tù tội
oan sai. Phạm tội này thì làm từ 3 đến 8 đời con cháu phải gánh chịu những
hậu quả rất nặng nề; cụ thể là tính trung bình, cứ trong 100 lần phạm tội này
thì: cả 100 lần làm con cháu phải đền mạng hoặc chết yểu; 20 lần làm con cháu bị
bệnh tâm thần; 80 lần làm con cháu bị tật bệnh ở vùng đầu và cổ; 40 lần làm con
cháu bị bệnh tim mạch; 40 lần làm con cháu bị các bệnh tật ở vùng bụng; 20 lần
làm con cháu bị tật bệnh ở vùng lưng và chân tay; 20 lần làm con cháu bị câm/điếc/mù;
60 lần làm con cháu không có con hoặc hiếm con; 20 lần làm con cháu bị nghiện,
cờ bạc, rượu chè, mất tiền của, lụn bại; 20 lần làm con cháu phải sống cơ cực,
hay bị oan, bị khinh miệt.
- Nghiệp
số 10 là tội vơ vét hoặc chiếm đoạt
hay trộm cắp của công hoặc của người khác. Phạm tội này thì làm từ 3 đến 5
đời con cháu phải gánh chịu những hậu quả rất nặng nề; cụ thể là tính trung
bình, cứ trong 100 lần phạm tội này thì: có hơn 38 lần làm con cháu phải đền mạng
hoặc chết yểu; 81 lần làm con cháu bị tật bệnh ở vùng đầu và cổ; hơn 38 lần làm
con cháu bị bệnh tim mạch; hơn 19 lần làm con cháu bị các bệnh khác ở vùng ngực;
hơn 71 lần làm con cháu bị các bệnh tật ở vùng bụng; 5 lần làm con cháu bị các
tật bệnh về đường sinh sản; hơn 52 lần làm con cháu bị tật bệnh ở vùng lưng và
chân tay; 5 lần làm con cháu không vợ không chồng hoặc khó có vợ chồng hoặc có
vợ có chồng mà vẫn chăn đơn gối chiếc lạnh lẽo như không; 5 lần làm con cháu lỡ
dở đường tình duyên, lắm vợ lắm chồng; hơn 14 lần làm con cháu bị nghiện, cờ bạc,
rượu chè, mất tiền của, lụn bại; 5 lần làm con cháu phải sống cơ cực, hay bị
oan, bị khinh miệt.
‘Đất có Thổ
Công, sông có Hà Bá’, lưới Trời lồng lộng, chẳng ai có thể che giấu Tòa
Thiên-Âm được một việc gì! Mong sao những ai đang có chức có quyền ở cõi trần
dương và những người liên quan thì cố theo gương các Quan Âm để làm được hai điều
sau đây:
Điều thứ nhất là: Soi và hiểu kỹ
càng 8 nghiệp bởi có chức quyền và liên
quan trong bảng Nhân-Quả NQ-3 để nắm rõ từng tội và hình dung nếu bản thân
mình phạm tội đó thì mấy đời con cháu sẽ phải chịu tai ương vật vã như thế
nào?!
Điều thứ hai là: Xử lý công việc
nghiêm minh, theo đúng nguyên tắc công minh, chính trực và kỷ cương. Nếu chưa
làm được điều này thì xem lại điều thứ nhất!
Thông
thường những người có chức có quyền thực thi chức và quyền của họ chỉ có 8 giờ
mỗi ngày. Hai phần ba thời gian còn lại của mỗi ngày làm việc thông thường và
toàn bộ những ngày nghỉ khác thì họ cũng là những người dân như bao người dân
thường khác. Do vậy họ cũng phải ‘soi gương Nhân-Quả NQ-3’ rất kỹ càng để tránh
mắc phải 46 nghiệp khác nữa.
Việc ‘soi gương
Nhân-Quả NQ-3’ nhắc nhở ta giữ gìn cẩn trọng trong từng lời nói từng việc làm để
ta không mắc tội/lỗi/lầm, để bản thân ta được bình yên hạnh phúc, và, để cho
nhiều đời con cháu về sau không bị tai ương tật ách vật vã do phải gánh trả
nghiệp mà ta đã gây ra! ‘Soi gương
Nhân-Quả NQ-3’ chính là một việc cần làm thường xuyên của mỗi người cũng như của
từng gia đình, từng dòng tộc. Làm được như thế dân ta chắc chắn sẽ hạnh phúc,
nước ta chắc chắn sẽ giàu mạnh, rạng rỡ tương lai!
Bài học thứ tư :
SỐNG CÓ TÂM thì tự cứu được mình, lại giải được
nghiệp gây bởi các đời trước trong gia tiên, đồng thời vun trồng được cả phúc lộc
cho các đời sau!
Chữ TÂM luôn được
Tổ Tiên dân tộc ta xếp ở vị trí quan trọng nhất trong số những phẩm chất hàng đầu
của một con người.
Có TÂM thì mới có ĐỨC, có NHÂN, có NGHĨA được. Có sống đúng với lương tâm thì mới tự cứu được mình không phạm phải
những sai/lầm/nhầm/lỗi/tội, mới không gây ra nghiệp làm các đời sau bị tai
ương, tật ách vật vã do phải gánh chịu nghiệp đó.
Các con cháu
trong gia tộc/trong dòng họ/ mà
biết bảo ban nhau, nhắc nhở nhau cùng sống đúng với lương tâm thì mới ‘giải được
nghiệp’ và nhất định sẽ ‘giải được nghiệp’ – nghĩa là mới cứu giúp cho các vong đời trước trong gia tiên/dòng tộc/dòng họ/ của
mình ở cõi âm được ‘ân xá’ thoát khỏi những hình phạt nghiêm khắc bởi đã gây
nên nghiệp đó. Điều này cũng đồng thời có nghĩa là các con cháu của dòng tộc/dòng
họ/ của mình đang sống ở trần dương sẽ được dứt khỏi những tai ương tật ách làm
điêu đứng bao lâu nay do phải gánh trả nghiệp gây bởi các đời trước. Sống đúng với lương tâm cũng đồng thời
có nghĩa là vun trồng NHÂN LÀNH để mai sau con cháu được hưởng QUẢ NGỌT. Có sống
đúng với lương tâm thì mới vun trồng được phúc lộc cho các đời sau.
SỐNG CÓ TÂM thì
tự cứu được mình, lại giải được nghiệp gây bởi các đời trước trong gia tiên, đồng
thời vun trồng được cả phúc lộc cho các đời sau! Bài học này được
đặt ở cuối cùng nhưng không có nghĩa là nó ít giá trị nhất, mà hoàn toàn ngược
lại -
nó là bài học quan trọng nhất; bởi đây chính là chìa khóa
- Để mỗi người
chúng ta tự cứu mình và giữ được sự bình yên hạnh phúc cho chính bản thân mình
một cách chủ động nhất và tích cực nhất.
- Để mỗi người
chúng ta bằng cách chủ động nhất và tích cực nhất có thể giúp cho các bậc gia
tiên của mình được nhẹ gót nơi vĩnh hằng.
- Để mỗi người
chúng ta vun trồng NHÂN LÀNH, chăm lo QUẢ PHÚC cho các đời sau một cách chủ động
nhất và tích cực nhất.
Bởi
vậy, chúng ta hãy cùng nhau trân trọng gìn giữ chiếc chìa khóa thần kỳ này! Hãy
SỐNG CÓ TÂM và SỐNG ĐÚNG VỚI LƯƠNG TÂM!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Phùng
Văn Duân và Nguyễn Đức Thiện. Báo cáo đề tài ‘Nghiên cứu thực chứng về nghiệp và giải nghiệp’. Trung tâm ‘Nghiên
cứu các hiện tượng và khả năng đặc biệt’. Hà Nội, 2015.
2.
Phùng
Văn Duân và Nguyễn Đức Thiện. ‘Nghiên cứu Tâm Linh Việt: Một số ứng dụng mới
trong đời sống và khoa học’.
Báo cáo tại Hội nghị khoa học toàn quốc ‘Nghiên cứu và ứng dụng khả năng
đặc biệt của con người’. Hà Nội, 13-12-2016.
Chú thích: Danh sách cụ thể 54 nghiệp đó là: 1. Phỉ báng /vô lễ với Thánh Thần của nước Việt;
2. Phá hại đền đình chùa miếu thờ người
có công với nước với dân; 3. Lấy/giữ
của đền đình chùa miếu làm của riêng; 4. Phá hại nơi thờ tự của họ khác / của nhà khác; 5. Phá /chiếm đất/ nhà thờ tổ/ nhà thờ chi họ
mình; 6. Phá /xâm lấn /làm hư hại mồ
mả; 7. Đào bới làm hư hại long mạch của
thần linh; 8. Làm việc tâm linh mà
tham tiền hám lợi/ tróc tiền của dân; 9. Làm thầy phù thủy, nuôi âm binh hại người; 10. Nợ tiền công đức / hứa làm công đức mà không làm; 11. Giết người / làm người khác phải chết;
12.Đánh hoặc làm người khác bị đau, ốm,
thương, tật; 13. Lợi dụng vị trí để
tham nhũng; nhận của đút lót hoặc dẫn
đút lót tiền/gái; 14. Có chức có quyền
mà xử /gây ra/ việc oan sai; 15. Theo
lệnh cấp trên làm việc sai trái/ giết người; 16. Lơ là trách nhiệm gây thiệt hại cho người khác; 17. Làm/ xúi bẩy làm/ việc sai trái, thất đức, hại
người khác; 18. Vu oan/ nghi oan/ dựng
chuyện / vu khống/ làm hại người khác; 19. Làm người khác phải tù tội oan sai; 20.Vơ vét /chiếm đoạt/ trộm cắp của công hoặc của người khác; 21. Vô cảm/làm ngơ, không cứu giúp người gặp nạn;
22. Đầu cơ trục lợi khi người khác gặp
cơn khốn khó; 23. Vay/mượn mà không
trả hoặc không trả hết; 24. Bất hiếu
với cha mẹ; 25. Đối xử tàn nhẫn / xỉ
nhục/ chửi bới /nói xấu người khác; 26. Đốt/
phá/ làm cháy nhà người khác; 27. Không
công bằng /không sòng phẳng/ gây thiệt hại cho người khác; 28. Làm nghề sát sinh (giết mổ); 29. Bỏ rơi (không ngó ngàng tới) gia đình;
30. Tranh vợ /cướp chồng của người khác;
31. Bẻ hoa ghẹo nguyệt/ làm hại đời con
gái nhà lành; 32. Trêu hoa ghẹo nguyệt;
33. Ăn nằm với người không phải vợ/chồng
mình; 34. Làm người ta có thai rồi bắt
phá bỏ thai, không cưới làm vợ; 35. Làm
người ta chửa/đẻ mà không cưới, mà bỏ con; 36. Phá thai /tự phá thai vì không được cưới làm vợ; 37. Quên/sai lời hẹn ước/ làm người ta lỡ dở
tình duyên; 38. Yêu A lại lấy B, tham
tình bạc nghĩa, tham vàng bỏ ngãi; 39. Lấy
nhiều vợ; 40. Ép duyên người khác /ép
duyên con; 41. Đánh ghen làm hại tình
địch; 42. Lấy/ ăn nằm/ với người có
quan hệ huyết thống gần; 43.Lấy vợ/chồng
là con đẻ của bố mẹ nuôi; 44. Nam nữ
gian díu nơi đền đình chùa; tu mà phá giới; 45. Vô ơn/ lấy oán báo ân/ ăn có nói không; 46. Dối trá/ lừa gạt/ nói sai sự thật gây hại cho người khác; 47. Cho vay nặng lãi; 48. Lấn/chiếm đất công/ đất của nhà khác;
49. Giết hại/ phá hại vật nuôi và sản xuất
của nhà khác; 50. Buôn bán /cânđo
đong đếm/ điêu sai; 51. Quát /nạt /
chửi mắng người khác; 52. Bắt trâu bò
làm quần quật quá sức; 53. Giết hại
con vật thiêng (rắn thần…); 54. Quên/sai
lời hẹn ước tình duyên trong kiếp trước. (Nghiệp này thường được gọi là ‘duyên
tiền kiếp’).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét