Thứ Tư, 4 tháng 10, 2017

Chủ thuyết Thiên - Địa - Nhân dưới ánh sáng vật lý ...và..

Bài đăng trong kỷ yếu hội thảo Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ nhất về "Nghiên cứu và ứng dụng khả năng đặc biệt của con người" do Viện NC&ƯDTNCN đăng cai tổ chức cùng 10 đơn vị nghiên cứu cùng tham gia.

CHỦ THUYẾT THIÊN - ĐỊA - NHÂN
DƯỚI ÁNH SÁNG VẬT LÝ LƯỢNG TỬ VÀ CẬN TÂM LÝ HỌC

                                                                                    Đoàn Xuân Mượu[1]
ít nhất 8 điểm tương đồng giữa Vũ trụ và Con người:
1.     Đa tầng: Vũ trụ có 9 tầng trời, 10 tầng đất, có vật chất mịn và vật chất thô. Con người có thân thể vật lý thuộc 3 chiều không gian và 6 thân thể tế vi thuộc đa chiều không gian.
2.     Ý thức: Vũ trụ có lý trí Vũ trụ, siêu thức. Con người có tiềm thức, siêu thức, ý thức tự giác, hữu thức, vô thức.
3.     Trường: Vũ trụ có trường Điện, trường Từ, trường Điện-Từ, trưòng Thông tin, trường Sinh hình thái. Con người có Trường sinh học.
4.     Nhịp: Vũ trụ có nhịp thời gian, ngày tháng, mùa “đáy biển mùa đi nhịp hải hà”- xuân, hạ,thu, đông. Con người có nhịp tim mạch, nhịp sóng não, nhịp thở...
5.     Tính toàn đồ: Tại một điểm có thông tin về toàn thể trong phạm vi Vũ trụ và trong phạm vi từng Con người.
6.     Cấu trúc xoắn: Vũ trụ tàng trữ thông tin trong trưòng xoắn. Con người tàng trữ thông tin trong sợi xoắn gen ADN.
7.     Cơ chế tiến hoá: Vũ trụ có luật sinh tử, sinh hữu hạn tử bất kỳ. Con người có luật luân hồi, luật nhân quả.
8.     Giữa thế giới tế vi của Vũ trụ và 6 thân thể tế vi của con người có sự liên thông thường xuyên.
Từ đó rút ra bài học không thể tách Con ngưòi khỏi Vũ trụ khi lý giải vấn đề tiềm năng của Con người. Nếu tách rời Con ngưòi khỏi tiềm năng của Vũ trụ thì sự thông minh của Con người chỉ có thể ở mức láu cá của con khỉ, con vượn, sức mạnh Con người giỏi lắm chỉ bằng sức trâu ngựa.
TRỜI ĐẤT
Vật lý học lượng tử quan niệm vũ trụ là hệ thống gồm 7 nấc thực tại với những chiều không gian khác nhau.
          Theo Sipov nấc thứ nhất và là tuyệt đối là nguyên nhân của tất cả, nó thủ đắc những khả năng sáng tạo tuyệt đối. Nói cụ thể về nó thì không thể, cũng không thể mô tả bằng công thức toán học, vì nó đứng trên tất cả và sáng tạo tất cả. Nó là tạo hoá 6 nấc còn lại của thực tại có thể có phương trình toán học mô tả tính chất của vật chất.
          Lớp vật chất cứng là trường năng lượng sản sinh ra sóng thấp tần. Lớp vật chất mịn sản sinh ra sóng cao tần và siêu cao tần…Lớp trên hết của vật chất mịn có câú trúc thông tin, là trường xoắn với tần số rung khác nhau.
          Viện sĩ  Sipov khẳng định toàn thể thế giới đặc cứng sinh ra từ chân không vật lý. Trường xoắn tiên phát giống như những đợt sóng xoáy mang thông tin rất gần với các hiện tượng trong lĩnh vực tâm - vật lý như thần giao cách cảm, tâm viễn động, tiên tri.v.v… Đó là trường ý thức chiếm vị trí cao nhất trong 6 nấc thực tại còn lại. Đó là “Trường thông tin toàn thể” hay: “Lý trí vũ trụ”.
          Các sóng và các trường năng lượng đã biết và chưa biết đan vào nhau trong không gian nhưng không thâm nhập vào nhau như các tia đèn chiếu trong đêm tối. Chúng lan toả ra tứ phía của không gian tạo ra “Thế giới tế vi” (mịn) hay gọi là “Trường thông tin vũ trụ”. Các sóng có mức rung khác nhau, từ sóng điện - từ thấp tần đến sóng xoắn cao tần.
          “ Trường thông tin vũ trụ” có bản chất sóng toàn đồ. Mỗi một điểm của thế giới toàn đồ có đầy đủ thông tin về thế giới nói chung.
          Thông tin là sự kết hợp của tinh thần với vật chất.
          Cách đây chưa lâu người ta coi thế giới mịn (tế vi) thuộc lĩnh vực siêu hình và tâm linh. Từ đầu những năm 1990 của thể kỷ trước, sau khi xuất hiện lý thuyết vật lý chân không của viện sĩ N. Sipov và sau khi tìm ra trường xoắn như là nền tảng vật chất của thông tin, thì thế giới tế vi đã thành đối tượng của vật lý hiện đại.
          Các trường xoắn tác động lên chân không vật lý tạo ra năng lượng và vật chất.
          Như vậy hình thành một chuỗi gồm tuyệt đối hư vô – siêu ý thức – thông tin - năng lượng - vật chất.
          Theo quan điểm khoa học tâm - vật lý hiện tại dạng thông tin cao nhất, sáng tạo nhất là ý thức. Mối liên kết “thông tin – ý thức”, cũng như liên kết “năng lượng - vật chất” là nền tảng của vũ trụ.
          Nhờ giải được các phương trình của chân không vật lý mô tả bằng toán học 6/7 nấc thực tại trong tạo hoá và quan niệm trường xoắn đã mang lại giải thích vật lý học cho “ý thức”, “linh hồn”, “tinh thần”…
Mark Plank đã kết luận:
           “Các nhà khoa học hiểu rằng khoa học không thể thiếu một phần không lớn của vật lý siêu hình”.
          Tồn tại những trường chung cho tất cả các sinh vật trên quả đất gọi là “Trường thông tin địa cầu”. Nhờ đó mà tất cả sinh vật tương quan với nhau.
          Những kiến thức tích luỹ trong trường thông tin địa cầu là thành tựu của cả nhân loại. Đó chính là cái bộ não toàn cầu. Theo quan niệm khoa học hiện đại vũ trụ là một cấu trúc thông tin – năng lượng thống nhất toàn vẹn.
          ADN là một ví dụ cho thấy gen không tạo ra sự sống chỉ bằng cách xâu các nguyên tố đơn giản AGCT dọc theo vòng xoắn kép. Tồn tại những khoảng trống giữa mỗi đoạn gen và sự sắp xếp này cực kỳ quan trọng. Con amip khác với con người ở trật tự Carbon, Oxy, Hydro và Nitơ dọc theo gen của nó,  chứ không phải là bản thân các nguyên tố ấy. Những khoảng không, hay khe hở, giữa các vật liệu gen đưa chúng ta trở lại khái niệm hư vô, với cái gì đó sắp xếp các sự kiện ngẫu nhiên sao cho chúng có ý nghĩa. Hệ thống sinh thái trên Trái đất là một ví dụ. Các hình thái sự sống thường xuyên liên hệ với nhau trong một sự cân bằng tinh vi. Ví dụ khí oxy được thực vật tạo ra trong quá trình quang hợp có thể tiêu diệt loài cây cối chỉ cần thán khí nếu như không có các động vật sống bằng tiêu thụ khí oxy và thải thán khí cho thực vật thì loại thực vật đó sẽ chết. Sự cân bằng kiểu ấy cực kỳ phức tạp.

NGƯỜI
          Trong vũ trụ con người đựơc coi quan trọng như Trời và Đất. Trời có bốn mùa, Đất có vật sản. Người có văn trí. Ba thế lực ấy có thiên chức riêng, trong đó thiên chức của Người là biết dùng những gì mà Trời Đất ban cho để thúc đẩy sự tiến hoá.
          Tạo hoá ban cho  linh hồn để ngộ về đấng Tạo hoá, ban cho tâm hồn để ngộ về chính bản thân, ban cho thân thể với 5 giác quan để tiếp nhận và thích ứng với thế giới xung quanh.
          Nhà vật lý Bulgari B. Payusev viết: “Con người là bản sao phức tạp của vũ trụ, con người liên quan với trường thông tin mang ý nghĩa vũ trụ. Hoạt động của ý thức con người không bị giới hạn bởi cấu trúc giải phẫu hình thái của nó. Bởi lẽ do bản chất hạt sóng của con người, ý thức con người nằm cả bên ngoài thân thể của họ trong không gian Trường”.
          Tất cả 7 phần thân thể con người đều là vật chất thuộc 7 trạng thái khác nhau trong đó đặc nhất là cơ thể vật lý, đặc vừa là thân thể ête (aetherial). Các phần còn lại là tế vi. Học thuyết về cấu trúc thân thể người ta của Putsko lý giải vấn đề trung tâm “Chúng ta là ai?”
          Mô tả phần hữu hình cơ thể người ta đã khó, mô tả phần vô hình còn khó hơn nhiều. Các nhà hiền triết phương Đông đã bắt đầu hình dung về phần vô hình này cách đây 4.000 năm bằng con đường minh triết.
          Trong 3 - 4 thập kỷ gần đây các nhà y học Tây phương cũng vào cuộc nghiên cứu phần vô hình của cơ thể con người với mục tiên làm sáng tỏ những lực nào đứng đằng sau các khả năng đặc biệt của con người, như ngoại cảm, linh cảm, thần giao cách cảm, tiên tri, điều trị bệnh không dùng thuốc v.v...
          Thân thể tế vi không có cấu trúc rõ ràng. Chúng được hiểu như là trường năng lượng với dải tần số rung khác nhau và chiều không gian nhiều hơn ba chiều. Chúng được cung cấp năng lượng từ vũ trụ thông qua các luân xa liên quan.
          Trong số các thân thể tế vi, thân thể ête đượp nghiên cứu nhiều nhất. Tên  “thân thể aetherial” xuất phát từ danh từ “ête” là trạng thái nằm giữa năng lượng và vật chất. Các nhà chụp ảnh và các nhà ngoại cảm thấy chất liệu tạo ra thân thể ête là một mạng lưới lấp lánh của các tia sáng, tựa như các vạch trên màn hình vô tuyến.
          Thân thể ête là khuôn năng lượng mà trên đó các mô của thân thể hình thành và bám chặt vào. Lý thuyết “Trường” (Field) của J.Perraros và thực nghiệm trên thực vật cho thấy khuôn trường năng lượng trong bóng dáng chiếc lá xuất hiện trước khi chiếc lá sinh thành. Trong thí nghiệm khác, một chiếc lá trưởng thành bị cắt đi một nửa nhưng “trường” của chiếc lá vẫn nguyên vẹn. Trường ấy tạo sơ đồ cho hình thái nên còn được gọi là “Trường phát sinh hình thái”. Thân thể ête đồng dạng với thân thể vật lý với đầy đủ các bộ phận giải phẫu. Những thành phần khác của thân thể ête là các cấu trúc tiếp nhận năng lượng vũ trụ để biến đổi thành năng lượng của con người.
          Các thân thể tế vi còn phân biệt nhau ở số lượng thông tin mà chúng nhận, lưu giữ và ở số chiều không gian - thời gian. Ví dụ thân thể vật lý có không gian ba chiều và thời gian một chiều, thân thể cảm xúc có bốn chiều, các thân thể tâm thần có 5 – 7 chiều. Những khả năng đặc biệt cuả con người, thiên tài, đều nhờ các đặc điểm này của thân thể tế vi mà có.
          Thân thể tế vi số 7 “ tâm hồn” ( soul) thể hiện ý thức, đạo đức, tình cảm, ý chí của “cái tôi” mà không người nào giống hoàn toàn người nào. Có thể hiểu “cái tôi” là sự tổng hợp của lý trí, ý chí và cảm xúc như là những yếu tố chính nằm ở ba góc của một hình tam giác cân, mà ở trung tâm của nó là con người.
          Là con người - tiểu vũ trụ - ai cũng có tâm năng. Tuy nhiên, ở một số người tâm năng phát triển mãnh liệt. Người ta gọi họ là những nhà ngoại cảm. Những nhà ngoại cảm nổi tiếng thế giới như: Kulaghina, Eomolaiev ( Nga) Hômơ và Manning ( Anh), U.Gelê ( Israel), Gria ( Pháp) … Người thì biết sử dụng tâm năng để làm chuyển động các tĩnh vật, làm thay đổi chiều của kim la bàn, biết thuật khinh thân bay bổng trong không gian. Họ cũng là những người thách thức trường hấp dẫn vũ trụ. Có người nổi tiếng dùng tâm năng để chữa đủ các thứ bệnh không cần thuốc, chỉ bằng một cái nhìn có thể làm loạn nhịp tim người khác hay làm cho tim ngừng đập. Lại có người bằng cái nhìn ngang dọc có thể vẽ hình chữ thập trên tấm phim dấu trong bao kính đen hoặc bẻ cong đồ vật bằng kim loại v..v… Trong Vật lý, năng lượng có hướng có thể làm chuyển động máy bay, xe lửa….
          Tất cả những hiện tượng “Huyền bí” như trạng thái biến đổi ý thức, viễn tâm động học, tiên tri, thần giao cách cảm, trị bệnh theo y học đa chiều v..v.. đều là kết quả của sụ tương tác của con người với trường thông tin địa cầu. Mức độ tương tác càng cao thì tiềm năng càng nhiều.
          Chúng ta cần học cách đánh thức và mở rộng những tiềm năng Trời ban cho lúc ban đầu. Quá trình ấy là hịên thực, người có chí có thể học làm được.
          Một khía cạnh quan trọng khác của trường sinh học là nó cũng thể hiện ở mức tế bào. Mỗi tế bào có sinh trường của mình và liên thông với sinh trường của toàn cơ thể. Trong cơ thể luôn luôn có cuộc đấu tranh giữa các tế bào tái sinh bình thường và tế bào phát triển không bình thường (ung thư hoá), như là cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa cái thiện và cái ác. Nếu sinh trường được tăng cường thì tế bào tái sinh có thể đè bẹp, lấn át quá trình ung thư hoá, phục sinh cơ thể, giữ gìn sức khoẻ.
          Từ cuối thế kỷ XX các nhà khoa học đã chứng minh đáng tin cậy rằng ý nghĩ, cảm xúc và lý trí con người có thể tác động làm thay đổi ADN thành phần hoá học của dịch thể nội môi, thậm chí ảnh hưởng tới một số chỉ số của công cụ nghiên cứu sinh vật học.
          Não bộ là cơ sở vật chất của hoạt động tinh thần và tâm lý. Hữu thức là do hoạt động của võ não, vô thức là do hoạt động của vùng dưới vỏ não xuống đến tuỷ sống. Vỏ não là não mới, trong đó có tế bào xám liên quan đến ý thức, trí tuệ. Vùng dưới vỏ não là não nguyên thuỷ có liên quan đến bản năng thú tính.
          Loài người mặc dầu đã tiến hoá với não bộ phát triển như ngày nay vẫn có những dạng hoạt động vô thức. Lúc bình thường người ta ít biết đến dạng hoạt động này và cũng vì thế mới gọi là vô thức.
          Những cảm nghĩ vô thức có xung lực mạnh trong tâm lý con người. Hoạt động vô thức diễn biến theo quy luật khác hẳn với những hoạt động hữu thức. Không ai chối cãi rằng con người thường bị những động cơ thôi thúc mà bản thân không nhận thức được. Cho nên khi đánh giá nhân cách con người hãy xét theo hành vi của họ hơn là dựa vào cách người ấy tự đánh giá. Phần chính của tâm lý con người ẩn giấu trong cõi vô thức. Người ta thường suy nghĩ một cách vô thức, chỉ thi thoảng mới có tính chất hữu thức. Những đòi hỏi vô thức trong đời sống hàng ngày chiếm một tỷ lệ lớn hơn nhiều so với những đòi hỏi có ý thức.
          Trong não bộ con người có hơn 10 tỷ neuron. Đây là những yếu tố vô cùng quan trọng cho các phản ứng diễn ra liên tục trong não người. Giống như loài kiến, các neuron  này “nói chuyện” với nhau bằng cách sử dụng các mã hoá. Các neuron thông tin với nhau không chỉ bằng ngôn ngữ mã hoá. Não cũng được ví như một máy phát điện có thể tạo ra xung điện là những tín hiệu rất mạnh.
          Não là cấu trúc đọc thông tin từ hệ thống trường sinh học con người và trường thông tin vũ trụ.
          Về vai trò của não U. P. Smelev viết: “Cấu trúc vật lý của não, cũng như các xung sinh lý thần kinh, không tạo nên hành vi tâm thần, không làm phát sinh ý tưởng, mà chỉ phản ánh sự triển khai quá trình tâm thần ở ngoài ranh giới của não bộ”.
          Nhà triết học Pháp Henry Berson viết “Não không gì  khác hơn là một trạm điện thoại trung ương mà vai trò của nó là chuyền thông tin hoặc làm rõ nó, biến sự kích thích ngoại lai thành một phản ứng có lựa chọn của thân thể”.
          F.Voino – Yasenetsky viết về não: “Não không phải là cơ quan ý nghĩ¸cảm xúc, nhận thức, mà là cơ quan gắn ý thức, cảm xúc và ý nghĩ với đời sống thực tế, bắt chúng phải nghe  theo các nhu cầu thực tế và làm cho chúng có khả năng hành động hữu ích”.
Các nghiên cứu mới nhất cho thấy trong vỏ não không phát hiện ra trung tâm tư duy và trí nhớ, không có những cấu trúc đặc thù thực hiện các chức năng ấy.
Các quá trình tư duy và quyết sách được thực hiện bên ngoài não bộ, bên ngoài thân thể vật lý, ở nơi có chiều không gian khác trong lĩnh vực ý thức. Còn não thì chỉ xử lý những hậu quả của quá trình ấy. Như vậy não chỉ là hệ thống điều khiển thân thể vật lý của con người.
Não người là một bộ phận quan trọng của thân thể vật lý nhưng vẫn thuộc không gian ba chiều như chính thân thể vật lý. Trong con người có 7 thân thể thì 6 thân thể tế vi thuộc không gian đa chiều quyết định những khả năng đặc biệt của con người.
Heraclit nhận xét: “Sức mạnh của tư duy nằm bên ngoài não bộ. Điều đó có nghĩa là tư duy không dựa trên các tổ chức sinh lý, vật chất của não bộ”.
Bằng cách nào não bộ bảo tồn thông tin trong trí nhớ trong thời gian người bệnh chết lâm sàng là lúc cơ thể vật lý không làm việc, thế hiệu của tế bào não bằng 0. Thông tin, nếu nó bảo tồn trong não, lẽ ra đã bị xoá. Nhưng điều ấy không xảy ra. Sau khi người bệnh sống lại thì lập tức nhận ra người thân, bạn bè, nghĩa là trí nhớ vẫn được bảo tồn.
Thì ra cơ chế bảo tồn trí nhớ dựa trên cơ sở vật chất mịn và hệ thống trường sinh học bảo toàn thông tin ở ngoài não, tức là ngoài thân thể vật lý.
          Não giống máy vi tính sinh học thực hiện một chương trình đã định ở ngoài não.
LÝ GIẢI CÁC TIỀM NĂNG CON NGƯỜI
1.     Thần giao cách cảm
 Đó là sự giao lưu không cần đến năm giác quan thông thường. Đọc ý nghĩ của người khác là một dạng của thần giao cách cảm. Ví dụ người gặp nạn phát đi một năng lượng mạnh mẽ kêu cứu người thân ở xa. Người nhận thông tin này dưới dạng linh tính mách bảo. Xét về cơ chế thì lời kêu cứu chuyển đến vô thức của người nhận một cách tức thì và từ đó chuyển sang cơ cấu hữu thức của não để hành động cấp cứu. Ở đây không thấy có sự tác động trực tiếp với nhau qua một sóng nào cả, không có việc sóng mang thông tin qua lại giữa hai chủ thể ở cách xa nhau. Ở đây vô thức nằm ngoài không gian và thời gian vật lý.
Để giải thích khả năng tác động từ xa lên hệ thần kinh của người khác tức là thần giao cách cảm, người ta dùng kỹ thuật vô tuyến viễn thông hiện đại để kiểm chứng hiệu quả. Người chuyển giao thông điệp và người nhận ở xa nhau. Người chuyển tin nhìn vào màn hình video và chuyển những gì nhìn thấy bằng ý nghĩ cho người nhận tin. Người nhận tin được yêu cầu tường thuật lại theo hệ thống truyền thanh những hình ảnh đã nhìn thấy và bình luận về những hình ảnh ấy. Trong 700 thí nghiệm loại này trến thế giới độ chính xác đạt 34%. Thiết tưởng cần nhắc lại rằng trong các thí nghiệm tâm linh nếu đạt 20% trở lên là đáng tin cậy.
          Một dạng thí nghiệm khác được chọn là dùng một số ảnh lấy từ trong một đống ảnh và hỏi người ở xa ảnh ấy là ai? Có thể hỏi hình ảnh mà định chọn tiếp theo là ai.
2.     Linh cảm
 Đó là giác quan thứ 6 mà nhờ nó người ta có khả năng tiếp nhận những thông tin từ khoảng không vũ trụ, từ thế giới vô hình. Linh cảm sớm mách bảo con người việc nên làm hoặc nên tránh. Rất tiếc nhiều người cố tình làm ngơ hay cưỡng lại, nén chặt những điều ấy vào tiềm thức và không dùng đến. Thế là cái vũ khí Trời cho cổ xưa nhất để tự vệ, mà con vật nào cũng có thì có người chôn sâu lèn chặt nó làm cho các điều linh cảm trở thành vô dụng.
          Giác quan thứ 6 cảm nhận bằng thị giác: Nhà ngoại cảm nhìn thấy ở trong đầu của chính mình hình ảnh tồn tại ở bên ngoài. Ví dụ nhà ngoại cảm tìm mộ vẽ ra sơ đồ mộ chí cần tìm để theo đó mà đi tìm hoặc người ngoại cảm mô tả hình dáng của vong ở dưới nấm mồ.
           Giác quan thứ 6 thể hiện bằng thính giác: Nhờ thính giác ngưòi ta có thể nghe giọng nói vọng đến từ xa với một thông điệp rõ ràng gọi là “tiếng nói từ trên”, tiếng nói “lý trí vũ trụ”, trong đó chứa đựng những thông tin có tính tiên tri và khuyến thiện.
          Giác quan thứ 6 cũng biểu hiện qua khứu giác, chẳng hạn hai cô gái hẹn nhau theo kiểu đùa rằng ai chết trước thì về thăm người sống, lấy mùi hoa hồng làm dấu hiệu của sự hiện diện.
          Giác quan thứ 6 cũng thể hiện qua xúc giác: Sờ vào một vật lạ có thể đoán vật này có ý nghĩa gì đặc biệt, chẳng hạn con dao này đã từng là công cụ gây án.
3.     Tiên tri
          Tiên tri là đỉnh của tảng băng ngầm linh cảm, là khả năng nắm bắt cái mà trong trạng thái bình thường không cảm nhận được. Nó là sự nhạy cảm gia tăng, sự thâm nhập tinh tế và chính xác vào bản chất của thế giới xung quanh và các hiện tượng xảy ra ở đó. Các bậc tiên tri nổi tiếng thế giới là Nosterdamus, Blavatskaya...
4.     Nhà ngoại cảm điều trị không dùng thuốc
          Nội dung phương pháp là căn cứ vào sự biến đổi trạng thái trường sinh học của người bệnh qua hình ảnh chụp được hoặc qua sự cảm nhận trực tiếp của nhà ngoại cảm. Nội dung điều trị là truyền năng lượng sinh học cho ngưòi bệnh. Nguyên tắc chung là nhà ngoại cảm dùng trưòng sinh học của mình để tác động lên trường sinh học của ngưòi bệnh. Một cảm giác nóng trào vào cơ thể người bệnh qua bàn tay của nhà ngoại cảm nhất là vào cơ quan bị bệnh, trong khi bàn tay nhà ngoại cảm vẫn lạnh.
          Trường sinh học có thể tạo ra các hiệu ứng vật lý có thể cảm nhận đựoc bằng năm giác quan thông thường. Bao giờ sinh trường cũng thay đổi theo tình trạng thể chất và tâm thần người bệnh. Tóm lại thể xác, hệ kinh mạch, trường sinh học, cả 3 thành phần không thể loại bỏ nhau vì con người vốn là một chỉnh thể.
      5. Nhà ngoại cảm điều trị bệnh âm không dùng thuốc
          Nhà văn hoá tâm linh Trưởng Cần một thời nổi tiếng trị bệnh âm giỏi ở Hà Nội. Tuy ông mất đã 28 năm nhưng danh tiếng của ông vẫn còn nguyên trong lòng người bệnh. Theo Trưởng Cần bệnh âm chia thành hai loại: “thân bệnh” và “nghiệp bệnh”, ông chỉ nhận chữa “thân bệnh”, không chữa được “nghiệp bệnh”. Ý nói nếu người bệnh có tiền kiếp không lành thì bệnh không chữa được.
          Ngày nay có nhà ngoại cảm Phạm Thị Phú ở Thái Nguyên vốn là một người bán cá ở chợ nghĩa là không biết gì về y học, nhưng với sự trợ giúp của 2 vong là người thân - “cậu và cò”. Cô Phú tuyên bố tôi không chữa được bệnh cho tất cả mọi người, chỉ chữa được cho một số ngưòi mà thôi. Điều đó chắc phải hiểu rằng ngưòi nào có phúc có đức thì cô mới chữa được lành bệnh. Tuy nhiên khác với Trưởng Cần cô Phú có mở ra một lối thoát cho bệnh nhân là “giải nghiệp”.
          Chung quy phải chăng bệnh âm là một biểu hiện của luật nhân quả. Người nào đã gây ác thì phải trả giá: “Ác giả ác báo”.         
          Về cơ chế gây bệnh có thể kể đến cơ chế “sóng tiêu cực”, dạng sóng đứng (Soliton) nhập vào cơ thể và gây bệnh. Nhà ngoại cảm bằng tâm năng của mình đưa “sóng tích cực” tương ứng vào cơ thể người bệnh để xua đuổi “sóng tiêu cực” ra khỏi cơ thể người bệnh không cần đến thuốc đặc trị. Ngày nay y học đa chiều ở Nga sử dụng con lắc để chẩn đoán và điều trị bằng “sóng tích cực”. Gọi là đa chiều là cốt để phân biệt với y học ngày nay áp dụng hằng ngày ở bệnh viện cho ngưòi bệnh thuộc 3 chiều không gian và dùng các thuốc đặc trị thông thường.
          Tóm lại ngoại cảm là khả năng tiếp cận với nguồn thông tin và năng lượng của vũ trụ và sử dụng chúng vào mục đích của mình. Khả năng ngoại cảm là do tự nhiên, do tạo hoá ban cho, cần khuyến khích phát triển nó lên.
          Dưới ánh sáng của Vật lý lượng tử và Cận tâm lý học các khả năng đặc biệt của con người nhất là trong lĩnh vực chữa bệnh không thuốc, tìm mộ... đã có cách giải thích.   
Sách tham khảo
1. Bộ môn Thông tin dự báo và bộ môn Cận tâm lý, TTNCTNCN
Tọa đàm: “Nhà chữa bệnh Nguyễn Đức Cần…”, HN 27 tháng 8 năm 2011
2. Bộ môn Cận tâm lý. Bước vào thế giới vô hình, HN 2010
3. Deepak Chopra. Gánh nặng chứng minh. NXB VH Sài Gòn, 2009
4. Danich M. Nhập đề cận tâm lý học, Web, 2004 (Anh)
5. Đoàn Xuân Mượu. Sự sống trong thế giới không nhìn thấy, NXB KHKT,  1973, tái bản 2007
6. Đoàn Xuân Mượu, Chúng ta là ai? NXB Thanh niên, 2007, tái bản 2010
7. Đoàn Xuân Mượu. Con người là tiểu vũ trụ, NXB Thanh niên, 2010
8. Đoàn Xuân Mượu, Khoa học và vấn đề tâm linh, NXB Thanh niên, 2010
9. Freud S, Jung C. Fromm E, Phân tâm học và văn hóa tâm linh, NXB VHTT, 2002
10. Hewitt.W. Sự phát triển của các khả năng ngoại cảm. Minesota, 1997 (Nga)
11. Mundasep E. Chúng ta thoát thai từ đâu? NXB Thế giới, 2002
12. Putsko L. G., Y học đa chiều, Mascova, 2004 (Nga)
13. Putsko L. G. Định vị sinh học cho mọi người. Hệ thống tự chuẩn đoán và tự điều trị, Mascova, 2004 (Nga)
14. Nguyễn Hoàng Phương, Con người và trường sinh học, NXB VHTT, 2002
15. Nguyễn Duy Quý, Nhận thức thế giới vi mô, NXB KHXH. 1998
16. Steven Reiss,  Tôi là ai?,  Hemiro, USA, 2000 (Anh)
17. Sviasch, Cách nhận thông tin từ thế giới mịn, Mascova 1997 (Nga)
18. Sulk L., Ngôn ngữ của trực giác, Mascova 2003 (Nga)
19. Tikhoplap V.  Sự chuyển đổi cơ bản ở ngưỡng cửa thế giới tế vi, NXB Bec6,  2003 (Nga)



[1] GS TS y khoa, cựu UV HĐKH của Viện NC&UDTNCN 

Những bước đi đầu tiên của Khoa học ngoại cảm nước ta

Bài đăng trong kỷ yếu hội thảo Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ nhất về "Nghiên cứu và ứng dụng khả năng đặc biệt của con người " do Viện NC&ƯDTNCN đăng cai tổ chức cunngf 10 đơn vị nghiên cứu cùng tham gia.

NHỮNG BƯỚC ĐI ĐẦU TIÊN
CỦA KHOA HỌC NGOẠI CẢM Ở NƯỚC TA

Nguyễn Phúc Giác Hải  

Vào năm 1974, khi chúng tôi vừa kết thúc đợt nghiên cứu thực nghiệm về sinh học thì ở Hà Nội xuất hiện một người có khả năng chữa bệnh đặc biệt, một cụ già ở làng Đại Yên. Cụ có thể chữa bệnh cho người khác không cần dùng thuốc. Người bệnh có thể trực tiếp gặp cụ, trình bày bệnh tật của mình. Sau đó, nếu cụ nhận lời chữa bệnh, bệnh có thể khỏi mà không cần thuốc. Khi người ốm ở nhà, hoặc nằm trong bệnh viện, người nhà lên xin chữa giúp, nếu cụ nhận lời, bệnh nhân được chữa cũng có thể khỏi. Đó là cụ Nguyễn Đức Cần. Cụ sống trong một căn nhà rộng, có vườn cây, nhiều hoa quả, chữa bệnh cho người khác mà không lấy tiền. Tuy nhiên, lối chữa bệnh có tính chất kì lạ, gần như thần bí ấy khiến nhiều người không thể hiểu được, và đã có dư luận coi cụ là phù thủy.
Ở các nước, danh từ này chỉ một loại người có những khả năng đặc biệt: tìm nguồn nước chỉ với một cành liễu cầm tay, chữa bệnh không dùng thuốc hoặc kèm những câu thần chú, đi trên lửa với bàn chân trần, tiếp xúc với những lực lượng vô hình...
Nếu quả thật có những phù thuỷ như vậy thì phù thuỷ cũng là một hiện tượng khoa học cần nghiên cứu. Nhà nữ ngoại cảm Liên Xô (cũ) - Đjouna Đavitatxvili được phong danh hiệu tiến sỹ y khoa, vì có khả năng chữa bệnh chỉ với đôi bàn tay...
Khi vấn đề được chính thức đặt ra, chúng tôi không chỉ có một đối tượng nghiên cứu là nhà chữa bệnh ở Đại Yên, mà còn có một số nhân vật ngoại cảm khác, trong đó có những người là cán bộ khoa học.
Tuy nhiên, hiện tượng Đại Yên vẫn là hiện tượng đặc biệt nhất mà chúng tôi đã gặp cho tới nay. Cùng lúc ấy, báo chí Liên Xô giới thiệu nhà ngoại cảm Tôpich Đađasep, người có thể nhận biết ý nghĩ và điều khiển hành động của người khác, việc nhà phi công vũ trụ Mỹ E Mitchell tiến hành các thí nghiệm truyền ý nghĩ từ con tàu Apollo 14 về trái đất... đã đưa chúng tôi đến giả thuyết về sự tồn tại của một năng lực đặc biệt để giải thích các hiện tượng ngoại cảm...
Được phép của Uỷ ban Khoa học nhà nước, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu tỉ mỉ việc chữa bệnh ở Đại Yên.
Tôi lên cụ vào ngày mùng 6 Tết năm Giáp Dần, 1974. Tôi còn nhớ rõ, buổi sáng hôm ấy cụ cùng một số bệnh nhân vừa đi thăm đền Và (Sơn Tây) về. Trong nhà, rất đông  người bệnh đang ngồi chờ cụ chữa bệnh cho họ.
Khi đến, tôi coi như một người bệnh và quan sát cụ tiếp khách, chữa bệnh. Bấy giờ có một người phụ nữ đến xin cụ chữa bệnh, người này hình như có một tình trạng thần kinh thế nào đó. Cụ có khuyên giải một số điều. Sau đó, bất chợt cụ thấy tôi ngồi mãi mà không nói câu gì, không xin chữa bệnh như mọi người. Cụ có quay sang tôi, cụ nói:
- Thưa ông, ông cần gì đấy ạ?
Tôi trả lời:
- Thưa cụ, tôi không đến để xin chữa bệnh. Tôi là một cán bộ nghiên cứu của Viện Khoa học Việt Nam. Tôi có nghe người ta nói về cách chữa bệnh đặc biệt của cụ, nay muốn lên gặp cụ để tìm hiểu về vấn đề này. Nếu đây là một sự thực, chúng tôi sẽ tìm cách giới thiệu dưới ánh sáng của khoa học.
Nghe vậy cụ tiếp tôi với một trạng thái khác. Cụ trả lời:
- Vâng thưa ông, tôi chữa bệnh bằng cái đầu của tôi, nhưng người ta cứ bảo tôi là phù thuỷ.
Ấn tượng đầu tiên của tôi khi gặp cụ, thứ nhất là lời ông cụ nói, cụ chữa bệnh bằng cái đầu. Đó là điều tôi chú ý và rất lôgich. Tôi chờ đợi câu trả lời như vậy.
Thứ hai, cụ là một người phải có cái gì đặc biệt. Tôi nhận thấy là cụ có đôi mắt rất sáng, nó loáng một cái, cái nhìn ấy không thể giống như một người bình thường được. Một cái nhìn có ánh quang. Khi lên gặp cụ, tôi chưa có những điều kiện thu thập các tài liệu như về sau này. Tôi là một người nghiên cứu về sinh vật học, tôi có viết một cuốn sách về những điều kỳ lạ trong thế giới sinh vật. Khi viết cuốn sách đó tôi phải thu thập các hiện tượng lạ trong thế giới sinh vật, và việc chữa bệnh của cụ là một hiện tượng lạ trong thế giới sinh vật và con ngưòi. Như vậy nó nằm trong diện quan tâm của tôi.
Tôi thấy cụ chữa bệnh không phải hỏi bệnh nhân, nên tôi liên hệ là cụ nhận biết bằng thần giao cách cảm. Cụ có thể chữa bệnh cho người khác từ xa, thì tôi liên hệ đến tài liệu của Paul Jagot, thôi miên từ xa - có thể tạm gán cho là như thế. Lúc đó Uỷ ban Khoa học kỹ thuật nhà nước có xuất bản tập Những dự báo khoa học năm 2000, trong đó có mục dự báo năm 2000 con người có thể nghiên cứu và ứng dụng các hiện tượng truyền ý nghĩ, tiếng Anh gọi là Extrasensory Phenomenag. Những cái đó đặt nền móng cho việc tìm hiểu việc chữa bệnh của cụ, nên tôi thấy nó không xa lạ mà có cơ sở khoa học.
Tôi phải làm mấy công việc sau đây:
Thứ nhất, tôi tìm trong những thư cảm ơn của bệnh nhân đối với cụ, những ca đặc biệt, tôi tìm đến những người đó. Những người bệnh này có cho tôi xem một số hồ sơ bệnh án, họ đã đi chữa ở một số bệnh viện, kết luận là không thể chữa khỏi hoặc là khó chữa, nay đến cụ thì được chữa khỏi. Đấy là một trong những bằng chứng, có căn cứ để nói là cụ có thể chữa bệnh. Tiếp đó, chúng tôi chuẩn bị những bệnh nhân mới, với hồ sơ đã chữa ở các bệnh viện không khỏi. Sau khi cụ Cần chữa khỏi, lại đưa đến bệnh viện xác minh lại. Kết quả cho thấy việc chữa bệnh “không dùng thuốc và từ xa’’ là có thật. Các sự kiện phù hợp với giả thiết về một năng lượng sinh học đã được phát ra từ người chữa được truyền sang người bệnh lại được củng cố thêm bởi các thông tin về Hội nghị năng lượng tâm thần (Psychotronik) họp ở Praha, Tiệp Khắc (cũ), có khoảng 250 nhà khoa học của hơn 20 nước tham dự, trong đó có Liên Xô.
Thứ hai, tôi quan sát trực tiếp việc chữa bệnh của cụ, với phương pháp chụp ảnh trước và sau khi chữa đối với một số ca bệnh, thí dụ như một ca bệnh vẩy nến, là bệnh mà toàn thân người bệnh bị mọc mụn khô thành vẩy.
Vậy thì cụ chữa như thế nào? Cụ lấy ra một miếng giấy, bảo người bệnh đốt miếng giấy đó trên một chậu nước, rồi lấy nước ấy rửa chỗ đau của cơ thể. Rõ ràng, khi thấy hiện tượng đó thì người nào cũng thấy đó là thần bí mà người ta có thể gọi là mê tín dị đoan. Thế nhưng, khi tôi chụp và so sánh ảnh người bệnh lúc chưa được chữa thì đầy những vẩy nến trên cơ thể, và sau khi rửa cái nước đó thì chỉ sau hai tuần lễ nó đã bớt đi rất nhiều, trước đó người bệnh đã đi chữa ở nhiều nơi nhưng không khỏi. Như vậy, rõ ràng chúng ta phải kết luận, trong trường hợp này, việc chữa bệnh của cụ là có cơ sở.
Thứ ba, tôi phải tìm hiểu bản chất việc chữa bệnh của cụ. Cụ chữa bệnh bằng việc nhận lời hoặc cho người bệnh một miếng giấy. Cụ nhận lời thì tôi có thể cắt nghĩa đấy là cụ có thể chữa bệnh từ xa, điều khiển từ xa. Thế nhưng miếng giấy là cái gì? Rất may là lúc bấy giờ tôi có sưu tầm rất nhiều tài liệu của thế giới. Người ta có nói là những nhà chữa bệnh bằng trường sinh học có thể tích năng lượng vào các vật dụng khác, ví dụ: tích năng lượng vào một cốc nước, một miếng giấy, một quả cam... rồi đưa cho bệnh nhân ăn, người bệnh thông qua đó được tiếp năng lượng thì có thể khỏi bệnh. Đó là một nguyên tắc mà những nhà chữa bệnh trên thế giới họ đã tự viết ra như vậy.
Sau đó đến giai đoạn thực nghiệm. Tôi vốn không uống được rượu, hôm ấy khi cụ mời tôi uống rượu thì mọi người ở đó bảo tôi là cứ uống đi rồi cụ sẽ giải cho. Tôi chấp nhận để thử xem thế nào. Lúc đó một người rót cho một chén rượu, tôi uống vào thì thấy ngây ngất, mặt nóng bừng. Cụ nói với một người ngồi gần đấy đưa cho cụ cái khay trong đó có những miếng giấy. Cụ cầm miếng giấy tích năng lượng vào đó rồi cụ bảo đốt đi. Một người cầm miếng giấy đó đốt trên cốc nước rồi tôi uống cốc nước đó.
Chúng ta biết rằng khi uống một cốc nước đá, thì cảm giác lạnh có từ cổ trở xuống, hoặc uống nước nóng thì cảm giác nóng có từ cổ trở xuống. Nhưng ở đây lại khác, trong trạng thái mờ mờ do uống rượu và say, khi tôi uống cốc nước đó thì thấy như có một cái mành mành chạy lách tách thả từ trên đỉnh đầu xuống, có một cái gì đó sáng ra, đây là một trạng thái rất lạ, và tất nhiên tôi có tỉnh hơn nhưng không thể hết hẳn say như khi bình thường. Sau đó, tôi có rủ anh Hoàng Phương là một phó tiến sĩ toán lý, anh có lên trên cụ và tôi có mời anh uống rượu. Nhưng tôi không nói cảm giác của mình cho anh biết. Thực nghiệm thì phải làm như vậy. Sau khi anh uống, tôi có đề nghị cụ cho anh ấy một liều thuốc giải. Khi anh uống xong chén nước, tôi hỏi anh thấy thế nào, anh có tả lại cảm giác như tôi đã cảm nhận. Lúc đó tôi mới nói với anh, đó cũng chính là cảm giác của tôi khi được cụ cho giải rượu.
Ngày 26 tháng 4 năm 1974, trong buổi báo cáo tại Bộ Công an, tôi giới thiệu tóm tắt việc nghiên cứu hiện tượng ngoại cảm trên thế giới, và các nhà ngoại cảm người Do Thái, Uri Geller người có khả năng nhìn cong cái thìa bằng kim loại; nhà ngoại cảm người Nga , Tofik Dađaxép có khả năng thần giao cách cảm...
Sau đó tôi giới thiệu ở Việt Nam cũng có một người đặc biệt, đó là Nhà chữa bệnh Nguyễn Đức Cần ở Đại Yên, Hà Nội. Tôi nhấn mạnh về khả năng thần giao cách cảm  và điều khiển từ xa của cụ, và nói rằng: Những khả năng này rất quan trọng cho quốc phòng và an ninh quốc gia .
 Trong buổi họp Bộ trưởng Bộ công an Trần Quốc Hoàn đã phát biểu: “Việc chữa bệnh của cụ là có cơ sở khoa học, trước đây tôi cũng có khả năng này, nhưng do tham gia cách mạng, nếu không tôi cũng có khả năng chữa một số bệnh như cụ Cần’’. Và  tôi nói rằng: “ Tôi rất sung sướng lần đầu tiên được trình bày vấn đề này tại một địa điểm rất quan trọng là trụ sở Bộ Công An. Tôi coi rằng, ngày hôm nay là ngày ra đời của khoa học ngoại cảm ở nước ta’’
Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn nói:“Như thế thì vinh dự cho Bộ Công an quá”
          Vào ngày 30 tháng 4 năm 1974, các cơ quan của Nhà nước có tổ chức quay phim việc cụ chữa bệnh tại Đại Yên, Hà Nội. Sự việc đó là do chính chúng tôi đề xuất với cụ và với cơ quan Nhà nước để ghi nhận một sự kiện khoa học. Chúng tôi đề nghị là phải dùng biện pháp quay phim, vì chỉ quay mới so sánh được kết quả lúc trước và sau khi chữa bệnh. Chúng tôi có đề nghị với xưởng phim Tư liệu khoa học. Thứ hai tôi có nhờ đến xưởng phim Quân đội, sau đó lại nhờ thêm xưởng phim của Vô tuyến truyền hình. Tôi không biết đoàn nào có thể đến được vì khi nhận lời các anh ấy không nói một cách chắc chắn.
Buổi hôm đó, chúng tôi có mời ông Lê Khắc, Phó chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước, một số đại diện ngành y tế, các cơ quan khoa học, Bộ Công an, một số tướng lĩnh trong quân đội như thiếu tướng Kinh Chi, ông Đặng Quốc Bảo... Buổi quay phim hôm đó tổ chức ngay tại nhà cụ Nguyễn Đức Cần, cả ba đoàn quay phim đều đến, có công an Hà Nội làm nhiệm vụ bảo vệ.
Ông cụ chữa một ca bệnh tóc kết. Cụ điều khiển, một người phụ nữ cầm lược chải tóc người bệnh cho nó xuôi ra, chải một lúc lại thấy bị tắc, bèn nói: “Thưa cụ, xin cụ cho mở thêm ra, không thể chải được”. Cụ giơ tay điều khiển thì lại chải được tóc, sau một lúc thì tóc mượt ra. 15 ngày sau, chúng tôi có tìm lại người bệnh ấy thì tóc vẫn mượt, không quăn trở lại. Điều quan trọng với người bệnh là khi tóc bị kết thì bị đau đầu, sau khi cụ chữa thì người bệnh không còn bị đau đầu nữa. Bệnh nhân thứ hai bị bại liệt, chân đã bị teo. Cụ nói ngay: “Cái chân này không thể chữa khỏi ngay được đâu, nhưng tôi sẽ làm cho nó cử động”. Cụ điều khiển thì cái chân cử động được thật, vì trước đó một bác sĩ bệnh viện Việt Xô (bệnh viện Hữu nghị) đã lấy kim châm nhưng chân đó không thể cử động. Chúng tôi có mời hai bác sĩ: một bác sĩ ở bệnh viện Việt Xô giám định ca bại liệt, bác sĩ bệnh viện Bạch Mai giám định ca bệnh tóc kết. Các bác sĩ có phát biểu và đã ghi âm, kết luận là việc chữa bệnh của cụ buổi đầu có kết quả.
Anh Nguyễn Hoàng Phương, một người cùng nghiên cứu với chúng tôi, ngay sau buổi quay phim đã đọc một bài phát biểu, trong đó anh nói: “Sự kiện cụ Nguyễn Đức Cần có một khả năng kỳ diệu và những phương pháp chữa bệnh hoàn toàn mới và rất thần tình, mặc dầu chưa giải thích được, là một tồn tại khách quan không thể phủ nhận được”.
Cụ có nói là bệnh của con người có hai vấn đề: “thân bệnh” và “nghiệp bệnh”, “thân bệnh” thì có thể chữa được, còn “nghiệp bệnh” thì khó, nghĩa là có người có thể khỏi bệnh, có người không khỏi, và có cả người cụ không nhận chữa.
Cụ bảo, chữa bệnh phải có “Đức”. Tên cụ là Nguyễn Đức Cần, ở đấy có chữ “Đức”. Ở đây, khái niệm đạo đức của cụ là con người sống không làm điều ác, không phạm các tội lỗi với xã hội, không bất hiếu với cha mẹ, đó là đạo đức thông thường và cụ khuyên người ta làm việc thiện. Rất tiếc là những điều kiện sau đó không thuận lợi cho việc nghiên cứu khoa học ngoại cảm ở nước ta. Mãi đến năm 1990, khi tôi trở lại công tác tại Viện Khoa học Việt Nam, vấn đề nghiên cứu ngoại cảm mới chính thức được đặt trở lại.
Đầu năm 1991, một Ban vận động thành lập Hội nghiên cứu khoa học ngoại cảm, gồm nhiều giáo sư, tiến sĩ và các nhà nghiên cứu tham gia, do giáo sư Đào Văn Tiến làm trưởng ban, đã chính thức ra đời để chuẩn bị cho một tổ chức khoa học nghiên cứu về hiện tượng này...Khoa học ngoại cảm khác với các khoa học thực nghiệm khác ở chỗ: Đối tượng nghiên cứu của nó là những con người có khả năng ngoại cảm. Việc tìm được những người thật sự có khả năng ngoại cảm, tự nguyện cống hiến khả năng của mình cho việc nghiên cứu và cho lợi ích xã hội không phải là dễ dàng.
Năm 1996, Đảng và Nhà nước ta đã cho phép thành lập một Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người thuộc Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam, và ngày 14 tháng 11 năm 2012, Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Tiềm năng con người đã ra đời theo quyết định số 760 QĐ – LHHVN, trong đó có một Bộ môn nghiên cứu năng lượng sinh học của những con người có khả năng đặc biệt như cụ, và vấn đề chữa bệnh của cụ đã được làm sáng tỏ.

Chúng ta tin tưởng rằng Anh linh của Cụ sẽ vẫn theo dõi những bước đi của chúng ta trong lĩnh vực nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng của con người, với mục đích cao cả là phụng sự Tổ Quốc.

Tâm linh và ảnh hưởng đến đời sống con người

Bài đăng trong kỷ yếu Hội thảo Hội nghị toàn quốc về "Nghiên cứu và ứng dụng khả năng đặc biệt của con người" do Viện NC&ƯD TNCN đăng cai tổ chức cùng 10 đơn vị nghiên cứu khoa học đồng tham gia

TÂM LINH VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI
Lương Ngọc Huỳnh[1]
          Chúng ta thường nói về Tâm Linh như một trong những hiện tượng huyền bí mà không có lời giải thích, hầu như bất kì điều gì khi con người không thể giải thích nó thì ta lại đưa nó vào trạng thái mà ta gọi là Tâm Linh. Vậy Tâm Linh ta hiểu nó như thế nào? Đó là những sự linh ứng sự báo trước, sự nhìn thấy, sự hiểu được, sự nghe được mà tự bản thân mình chứng nghiệm trong Tâm. Khi một ai đó được chứng nghiệm nhiều lần họ sẽ có niềm tin vào Tâm Linh, còn ai đó mà chưa chứng nghiệm thì họ có thể không tin về Tâm Linh. Vậy tâm linh có thật không? Ta có thể trả lời rằng Tâm Linh là có thật. Đó là thông điệp của Thượng Đế, của Thần Tiên, của Phật, của Chúa, của những con người đã mất, của linh hồn các loài linh vật mà trong đó có cả động thực vật. Ngoài ra nó còn bao hàm bởi những nền văn minh ngoài trái đất mà con người chưa biết, chưa thể lý giải, nó cũng có thể bị quy vào Tâm Linh. Vậy chúng ta cùng nghiên cứu mọi khái niệm để từng bước đi vào tìm hiểu các trạng thái Tâm Linh.
1. Tìm hiểu về các tầng năng lượng theo khái niệm cảm nhận của con người.
Năng lượng hay tầng năng lượng phụ thuộc vào cảm nhận của con người trong đó có đủ các trạng thái ta gọi là thiên nhiên cảm nhận. Người bình thường chỉ nhìn được một mặt trực diện, nhưng khi tư duy phát triển đến một mức độ cao hoặc ở trạng thái thiền sâu, thì người ta sẽ nhìn được các khía cạnh khác của mặt bên trong, đó chính là mặt khuất của hình mà ta gọi là tượng ý, tưởng tượng, hay quán tưởng. Trong đó Thiên là tượng, Địa là hình, người cùng cấp năng lượng không gian thì sẽ nhìn được tượng hay hình trong tầng cấp đó, đó chính là các biểu tượng của sóng năng lượng, thông qua các sóng năng lượng của thời gian, con người có thể nhìn được về quá khứ hiện tại và tương lai. Trong khi đó con người chỉ là một phần tử nhỏ trong bánh xe luân chuyển của không gian và thời gian. Theo quan niệm của đạo giáo về hệ thống năng lượng và không gian bao gồm có 12 tầng cấp dương và 12 tầng cấp âm, nó được phân chia như sau:
- Người yếu đuối, bệnh tật, sắp chết là tầng cấp không hoặc tầng âm 1.
- Người khoẻ mạnh không ốm đau ở tầng cấp + 2 đến + 3. 
- Người có tư duy vượt trội thường là những người có tài nổi tiếng, bao gồm các nhà khoa học, nhà văn hoá, nhà lãnh đạo, nhà âm nhạc, hội họa v.v.. họ đạt tầng cấp năng lượng từ +3,5 đến +4.
- Các nhà truyền giáo tài ba, thông tuệ có thể đạt từ tầng + 4 đến + 4,5.
- Từ tầng từ + 5, 1 đến tầng +  7, là tầng của các vị thánh, thần tiên, la hán.
- Trên tầng + 8 là tầng của thiên binh thiên tướng và các vị bồ tát.
- Tầng từ + 9 đến +11 là tầng của Ngũ Đế, của Phật Tổ, của Đức Chúa.
- Tầng 12 là tầng của Thượng Đế, tầng của vô cực biến hoá.
- Khi con người mới chết là ở tầng -1.
- Chết lâu năm có thể đến tầng -2,-3,-4.
- Có những linh hồn tu luyện thành tinh quái có thể đạt tới tầng – 7, - 8 hoặc cao hơn nữa. Nghĩa là sự tu luyện của ma quái đã đạt mức thượng thừa, nó là sự đối lập cho hai trạng thái âm và dương, nên nhân gian có câu " Ma Ma Phật Phật bởi do ta, Phật phật Ma ma bởi chính tà" do vậy các quan niệm của con người về hiện tượng Phật, Ma cũng từ chính, tà, tốt xấu mà suy ra. Trên cơ sở đó mỗi con người đang hiện sinh trên trái đất này nếu làm điều tốt ta được cộng điểm dương, có nghĩa là ta đang tiến gần đến với Thượng Đế, Thần Tiên, Phật, Thánh. Còn nếu ta làm điều xấu thì ta bị trừ điểm dương mà cộng thêm điểm âm vậy là ta đang đi gần đến với Ma Quỷ! Vậy trong một ngôi chùa một ngôi đình, nhà sư trụ trì hay ông từ coi đình mà có tâm đức thì người dân ở đó hưởng phước, nếu họ thất đức thì dân gặp hoạ. Trong một gia đình Bố Mẹ làm điều tốt thì con cái hưởng phúc, nếu Bố Mẹ làm điều xấu thì con cái gặp hoạ. Trong một xã hội hay một đất nước nếu Lãnh đạo đất nước làm điều tốt thì dân được phước, lãnh đạo đất nước làm điều xấu thì người dân bị tai hoạ là điều hiển nhiên, nó hoàn toàn đúng với mọi quy luật tự nhiên và cảm nhận về tâm linh của con người.

2. Ý Nghĩa Tâm Linh trong Thần và Người
Thần và người là trạng thái hai trong một và một mà hai, nó giống nhau ở Nguyên Thần nhưng khác nhau ở tinh thần và thể xác. Đạo giáo và Y học cổ truyền có quan điểm chung rằng: “Tinh-Khí-Thần” Là ba yếu tố quyết định sinh mệnh của con người, nên được coi như “Tam bảo”. Trong ba yếu tố đó không thể thiếu bất kỳ một yếu tố nào.  Nguyên thần của con người có ở trong vũ trụ, có ở trong ý thức, trong tư duy, trong thể xác nó đi từ ngọn tóc đến đầu các ngón chân, nó có mặt ở mọi nơi trong từng tế bào con người.  Người ta có thể nhân bản một con người từ tế bào, bởi chính nguyên thần có mặt ở đó. Do vậy khi ta chết đi cái thể xác biến đổi nhưng nguyên thần vẫn còn đó, nguyên thần mạnh có thể tác động đến vật chất giống như ta vận dụng năng lượng từ suy nghĩ tác động vào một trạng thái cụ thể trong thiên nhiên.
        Trong Tam Bảo thì “Tinh,
K, Thần" hay còn gọi là "Thân, Tâm, Ý" theo cách gọi của Đạo Lão luôn đồng hành trong suốt quá trình hình thành và thay đổi mọi trạng thái của con người, trong đó có trạng thái "Chết". Chính vì vậy mà người chết đi không phải là đã hết, nó chỉ chuyển hoá thể xác từ dạng năng lượng động, có hình, sang dạng năng lượng vô hình, mà ta thường đặt khái niệm đó là Tâm Linh. Vì vậy trong đạo Phật nói về kiếp luân hồi căn cứ vào cái sự tồn tại vĩnh cửu của nguyên thần. Khi nguyên thần được tồn tại, tu luyện trong đời sống con người hoặc trong trạng thái vô hình, đạt được cấp độ năng lượng tầng cao thì nguyên thần đó trở thành "Thần Thánh, Phật Chúa".
Trong cuốn sách “Hoàng Đế nội kinh” cũng ghi lại rằng “Khi thể xác con người mà mất thần, thì người đó sẽ chết". Chết ở đây chỉ có nghĩa là thể xác không động chứ không có nghĩa là chết hoàn toàn, bởi nguyên thần vẫn còn đó.
Trong y học hiện đại người ta chứng minh rằng "Hạch Nền" là nơi hội tụ mọi trạng thái cảm xúc và linh hồn của con người. Mà nguyên thần là trung tâm điều khiển mọi cảm xúc, mọi tư duy và hành động, nguyên thần có thể di chuyển đến bất kỳ nơi nào trong cơ thể, thường trú ngụ ở Tâm, nên trong đông y có nói Tâm tàng thần là vậy.
        Ngoài việc trú ngụ, nguyên thần còn điều khiển trạng thái di chuyển của khí huyết trên hệ thống kinh lạc, theo giờ tuần hoàn, do vậy các nhà tu hành có thể căn cứ vào yếu tố đó mà đưa ra "nhân thần cấm kị" để tránh va chạm làm tổn thương nguyên thần, nhẹ là hao tổn khí huyết nặng có thể tử vong!
 Trong các loài động vật đều có nguyên thần, động vật cao cấp thì nguyên thần càng mạnh, nó chi phối tư duy hay còn gọi là trí thông minh, chính điều này là yếu tố quyết định cho cảm xúc, từ cảm xúc mà phát triển đến tình thương yêu, hay ghét, giận. Cảm xúc cao có tư duy lớn trở thành lương tâm, đạo đức, và ngày càng hoàn thiện đến thông tuệ, mở rộng hiểu biết và giác ngộ đến trí huệ.  Những bậc chân tu, như Thích Ca, Lão Tử, Giê Su v.v.. là những người tu luyện đạt đến trạng thái giác ngộ, khai mở nguyên thần mà thành Phật, Chúa, Thánh, Thần.
     Làm sao để biết rằng ai đó đã đắc pháp hiển linh Thần
, Thánh, Phật, Chúa? Khi thân xác của họ chết đi, linh hồn của họ hiển linh có thể cứu độ chúng sinh, báo ứng cho người sống biết trước tai hoạ, giúp đỡ người tốt, loại trừ ác nghiệp, thì người đó chính là Thần Thánh, Phật, Chúa. Họ được theo dõi chứng nghiệm nhiều lần sự linh ứng trong tâm mỗi người, làm cho đại đa số dân chúng sùng tín mà suy tôn, lập đền chùa thờ phụng. Có những người hiển linh khi họ đang tồn tại là con người, bởi nguyên thần đắc pháp mà biết trước và cứu độ được cho chúng sinh thì người đó chính là Thánh Nhân đương thời cứu thế.

3. Những nguyên nhân ảnh hưởng đến vận khí
Một trong những nguyên nhân chính làm ảnh hưởng đến vận khí chung của thế giới đó là việc phá thai, và sự ô nhiễm môi trường trầm trọng.
Phá Thai và hệ luỵ về Tâm Linh. Phá thai có chủ đích được ra đời từ trước công nguyên khi mà loài người hình thành chế độ phong kiến vua chúa. Việc sinh một đứa trẻ không mong muốn do bị cưỡng hiếp, hay vì một lý do bất khả kháng khi người mẹ bị bắt vào phục vụ cho các vua chúa. Cũng có thể là sự lựa chọn của người phụ nữ hoặc đôi khi bị bắt buộc phải phá thai! Hơn hai ngàn năm lịch sử loài người tính đến hết thế kỷ 19 việc phá thai vẫn hình thành nhưng nó được giới hạn trong những trường hợp đặc biệt, do vậy tổng số thai nhi bị phá trên toàn thế giới chưa nhiều đáng kể.
        Nhưng kể từ sau đại chiến thế giới thứ hai 1945 và đặc biệt vào những năm của thập niên 60-70 của thế kỷ 20 thì luật phá thai được hình thành ở nhiều nước đặc biệt là những quốc gia đông dân số, có nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu.
Theo thống kê của Liên Hợp Quốc căn cứ vào số liệu được tổng hợp trong những năm gần đây, mỗi năm có khoảng 50 triệu thai nhi bị phá, đó là chưa kể những ca nạo phá thai ở các trung tâm tư nhân hoặc những người phụ nữ tự mua thuốc uống phá thai mà không được kiểm soát. Nếu tính cả những trường hợp này thì con số sẽ tăng lên rất nhiều.
 
(Ở Trung Quốc mỗi năm có khoảng 13 triệu ca phá thai. Ở Việt Nam theo thống kê là khoảng 1,5 triệu ca/ năm). Ta biết rằng đại chiến thế giới thứ 2 làm khoảng 50 triệu người thiệt mạng! Hiện nay với con số công bố của Liên Hợp Quốc thì mỗi năm chúng ta đã cố tình giết đi số lượng thai nhi bằng một cuộc đại chiến thế giới? Vậy thai nhi ảnh hưởng gì đến Tâm Linh? Thai nhi là một dạng thể xác và linh hồn ở trạng thái trung tâm của hai cực âm và dương, nghĩa là có nhưng chưa được sinh ra. Chúng ăn những nguyên khí của người mẹ khi còn trong bụng. Thai nhi là một trạng thái chuyển kiếp do quá trình tạo nghiệp. Biết bao linh hồn tu luyện nhiều kiếp để được làm người, nhưng chúng lại bị cướp đoạt mạng sống, quyền được sống ngay khi còn trong bụng mẹ! Do vậy, nỗi hận của thai nhi rất lớn! Đặc biệt những thai nhi đã được sinh ra làm người nhưng do sự mất nhân tính của những bà mẹ hoặc do văn hoá xã hội đồi bại mà những người mẹ này cố tình đập chết, hay vứt bỏ con mình ở nơi cống rãnh bẩn thỉu, hoặc bỏ rơi làm cho thai nhi phải chết thì sự thù hận này càng khủng khiếp, chúng sẽ đeo bám hành hạ người mẹ đó nhiều đời! Những vong nhi sau khi bị chết non hoặc bị bỏ đi khi còn trong bụng mẹ phải chịu bao đắng cay cực khổ, chúng bị lang thang không nơi cư ngụ và nương tựa chúng đã lập nên một quần thể lớn mạnh! Có những trường hợp bằng mọi cách quay lại tái sinh tìm bố mẹ để báo thù! Có thể phá trực tiếp bố mẹ, có thể hành hạ những đứa trẻ là anh, chị, em trước hay sau chúng! Nguyên nhân của sự báo oán:  Trước đó chúng có thể là những vong nhi báo ân, nhưng vì Bố Mẹ bỏ chúng nên chúng quay lại báo oán!  Sự báo oán sẽ ảnh hưởng đến thế giới văn minh. Ngày nay thế giới phát sinh rất nhiều tội phạm, nghiện ngập, trộm cắp, giết người, lừa đảo, tham nhũng, khủng bố!... Đó là dấu hiệu ban đầu của những đại hoạ. Trong tương lai không xa khi mà số vong nhi bị phá vượt số người đang sống trên hành tinh thì cũng là lúc đại họa thế giới sẽ ập tới ! Điều đó khó mà tránh khỏi!
Tâm Linh có thể ảnh hưởng đến môi trường và ngược lại: Từ xưa con người đã rất quan tâm đến địa lý phong thuỷ và bảo vệ nghiêm ngặt những khu vực địa linh nhân kiệt, nhưng ngày nay thế giới phát triển về khoa học công nghệ, kèm theo sự bùng nổ về dân số, các thành phố lớn các khu công nghiệp, các khu dịch vụ phần nào đã phá đi cấu trúc trật tự của địa lý phong thuỷ, điều này làm ảnh hưởng đến trường khí của địa linh hay còn gọi là Long Mạch, đó là nguyên nhân gây nên sự sa sút về nguyên khí làm ảnh hưởng đến vận khí của một số khu vực dân cư, bên cạnh đó do ý thức bảo vệ môi trường của chính con người trong xã hội đã làm cho vận khí ngày càng tiêu vong, từ nguồn nước, đến không khí đâu đâu cũng bị ô nhiễm trầm trọng, nhất là các nước mới phát triển và  mong muốn phát triển ồ ạt dẫn đến mất kiểm soát về thực trạng môi trường, đây cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến địa lý phong thuỷ làm cho trạng thái âm khí, tà khí, cái xấu trong tâm linh hỗn loạn và trỗi dậy khiến cho các khu vực đó quốc gia đó ngày càng suy vong.
4. Lòng tham và sự cầu cứu tâm linh của con người
Đến khi gặp phải các vấn đề về Tâm Linh, con người không biết phải tự sửa mình thì lại càng lao vào cúng bái cầu xin các đấng vô hình giúp đỡ giải nghiệp vậy nên mới có câu "Bất vấn thương sinh, vấn quỷ thần"?! Sao không hỏi dân sinh mà lại đi hỏi quỷ thần?! "Bất vấn thương sinh vấn quỷ thần" là một câu thơ đường của nhà thơ Lý Thương Ẩn, nói rằng: Ở đời nhà Hán có một vị Đại Học Sĩ rất tài ba tên là Cổ Nghị, trên thông thiên văn, dưới tường địa lý. Hán Văn Đế biết danh Cổ Nghị giỏi như vậy thì mừng khôn tả, Vua Hán liền cho người mời Cổ Nghị vào hoàng cung để hỏi một số vấn đề về đàm thiên, thuyết địa luận nhân. Nhưng khi gặp Cổ Nghị, Vua lại không  hỏi về dân chúng, mà chủ yếu tập trung hỏi về các lĩnh vực liên quan đến số phận và nghiệp vương của mình. Khi Cổ Nghị nói những vấn đề này thì khiến cho Vua Hán say mê đến nỗi từ đó ngày ngày chỉ lo cúng bái xin lộc thánh thần duy trì ngôi báu! Chẳng còn nghĩ đến vận nước và lòng dân! Chính vì vậy nhà thơ Lý Thương Ẩn đã viết câu thơ trên với ngụ ý chê trách Hán Văn Đế chỉ vì lo cho giai cấp thống trị của mình mà quan tâm chuyện thần thánh! Trong khi đáng lẽ ra ông ta nên quan tâm đến vận nước, lòng dân và việc sử dụng nhân tài sao cho ích nước lợi nhà.
        Do tâm con người loạn, tư duy và mọi hành động bị loạn khiến cho âm dương đều loạn và ảnh hưởng đến giá trị tâm linh.  Ta lấy một ví dụ trong xã hội của chúng ta ngày nay. Do mất cân bằng về giới tính Nam-Nữ, tỷ lệ người già và người trẻ chênh lệch, sự bứt phá của công nghệ khoa học, kiến thức xã hội cùng với tham vọng của người lớn, chủ trương chính sách giáo dục của nhà nước, khiến cho các em nhỏ đã phải tiếp nhận một áp lực quá sớm, trong khi đó người lớn thì bi quan chán nản, người già thì luôn cảm thấy cô đơn không được giúp đỡ và chia sẻ, bên cạnh đó do quá trình biến đổi khí hậu nhanh, môi trường xuống cấp, tệ nạn quan chức tham nhũng, đạo đức cán bộ suy đồi, toàn xã hội nổi lên sự lừa dối của con người từ mọi mặt v.v.. Dẫn đến cả xã hội đều loạn tâm, loạn trí!  Khắp nơi từ thành phố, nông thôn, đến miền núi, vì lợi nhuận vì đồng tiền mà tận dụng quá nhiều đến công nghệ hoá chất trong sản xuất công, nông nghiệp dẫn đến thảm hoạ môi trường. Con người phải ăn uống những sản phẩm kém chất lượng, thậm chí còn mắc bệnh hiểm nghèo và tổn thọ từ thực phẩm do chính con người làm ra! Điều này phạm đến tâm và đức. Con người có bốn cái tham. Tham quyền lực, danh vọng. Tham tiền bạc, của cải. Tham hưởng thụ ăn chơi sa sỉ rượu chè, trai gái. Và tham sống sợ chết! Chính những hoàn cảnh môi trường xã hội như vậy đã tác động mạnh đến tâm lý của mỗi người!
Trước mắt, xã hội Việt Nam đang mất đi sự cân bằng về âm và dương nghiêm trọng. Trong đó sự mất cân bằng giữa tư duy và thực tiễn, giữa tham vọng và cuồng tín, giữa lòng tham và sự khát vọng! Coi thường mọi giá trị của tâm linh. Người Việt Nam ngày nay quan tâm đến các vấn đề tâm linh, thờ cúng, từ việc xây chùa, xây đền, lập phủ v.v...Tục thờ cúng lễ hội, ngày rằm ngày tết đã xuất hiện từ lâu do tập quán ăn sâu vào tận tâm mỗi người Việt Nam, đó là văn hoá Tâm Linh nhưng sự linh ứng, chứng nghiệm trong tâm của mỗi người một khác. Có người tu tại tâm, lòng thành kính tại tâm, tự tu và tự ngẫm tự chứng nghiệm, nhưng cũng có người đi cúng lễ theo phong trào, thắp hương theo phản ứng tập thể, tâm không tịnh và cũng không cần sự chứng nghiệm! Cũng do phong trào và lòng tham của con người đã làm cho xã hội biến đổi, sự tham vọng vật chất đã trở thành trạng thái lượng biến mất kiểm soát.
Trong "Chu Dịch", ta nhận định từ Quẻ Càn mà nói: "Thiên Hành Kiện Quân Tử Dĩ Tự Cường Bất Tức". Nghĩa là nhân sinh ở đời phải hành động theo đạo trời, từ tự thân mình xuất phát cho bản thân mình trở thành một cơ sở độc lập, quả cảm, siêng năng kiên trì... Không ngừng phát huy và củng cố tự hoàn thiện chính mình, để vạn vật được "Sinh Sinh Bất Tức". Nghĩa là vạn vật luân chuyển tự nhiên, liên tục, không cần đến sự tác động khác. Nếu chúng ta không tự vận động bản thân mình thì dần dần chúng ta sẽ tự đào thải, tự mất đi nguồn sinh lực tự có của chính bản thân mình.
Trong khi cái nguyên thần và sinh lực của mình đang có mà không được phát huy, lại đi nhờ cậy vào việc xem bói, xin quẻ và làm những nghi lễ long trọng để chứng tỏ mình có hiếu hay trọng đạo v.v... Vậy thì tại sao chúng ta lại không nghĩ đến sự ảnh hưởng từ mặt trái của tâm linh dẫn đến rối loạn xã hội? Trong văn hoá tâm linh, chúng ta không phủ nhận việc có Quỷ Ma, Thánh Thần nhưng sự chú trọng về nghi thức thiếu chứng nghiệm và cuồng tín quá, sẽ khiến chúng ta đi lệch quỹ đạo tự nhiên. Ta biết rằng, Thần Tiên hay con người thuộc dương tính, trong khi đó thế giới Quỷ, Ma lại trái ngược nhau với con người, họ thuộc trạng thái âm tính. Trong thực tế thì năng lượng dương luôn đi lên còn năng lượng âm luôn đi xuống, do vậy từ tư duy và thiếu sự chứng nghiệm về tâm linh, không hiểu mình phải cầu cúng ai, mà lại đi cúng quỷ ma nhiều thì vô tình con người đã tạo ra trạng thái âm tính năng lượng quá nhiều, dẫn đến nguồn sinh trưởng năng lượng dương bị suy giảm trầm trọng. Nếu mỗi gia đình hương khói thờ cúng ma quỷ nhiều quá, khiến cho năng lượng âm càng lớn thì gia đình đó kém đi vận khí. Do vậy nhiều gia đình, nhiều đền chùa hương khói nghi ngút thờ cúng vong âm thì quỷ ma kéo đến nhiều khiến cho xã hội sẽ giảm năng lượng dương, và điều tất yếu là quốc gia suy vong! Chúng ta có quyền tin vào Tâm Linh, tín ngưỡng tôn giáo, thờ phụng tổ tiên... Nhưng mọi thứ phải hiểu rằng nên cúng ai và thờ ai? Còn nếu chúng ta cứ mất dần ý thức chứng nghiệm về tâm linh, cuồng tín mê muội, thì thói quen đó sẽ làm cho ý thức của chúng ta dần dần thay đổi!

5. Những khái niệm và định kiến
Tôi thiết nghĩ rằng, truyền thống văn hoá tâm linh, hay một thói quen hàng trăm năm, không nhất định là đúng hết. Nếu chúng ta không thức tỉnh lại, nhìn thẳng vào thực trạng của xã hội để thấy rằng, con Rồng Việt Nam đang đi xuống dốc ngày càng trở nên trầm trọng cả về tư duy lẫn mọi hành động thiếu kiểm soát và định hướng rõ ràng, thì chúng ta đang góp phần kéo con Rồng tụt lại so với thế giới. Ý thức về tâm linh, tư duy hèn yếu khiến cho rất nhiều người khi gặp nghịch cảnh, hay tâm ý bất ổn thì việc đầu tiên họ sẽ nghĩ ngay đến việc đi xem bói, xin quẻ hay thờ cúng quỷ thần?!
        Tôi xin lấy ví dụ:
Khi con cái ốm đau, chồng vợ ly tán, mất cắp, bị tai nạn, bị lãnh đạo trách mắng, làm ăn khó khăn nợ tiền, hay bất luận trong gia đình có vấn đề gì đó trục trặc, ham danh, hám lợi, muốn thăng quan tiến chức, muốn chạy tội v.v...  thì đại đa số mọi người đều nghĩ đến việc xem bói xem tướng, hay chạy lên đền chùa bái Phật, bái Thần Tiên, để cầu xin cho vận số của mình, trong khi đáng lẽ tự mình phải cố gắng khắc phục, phấn đấu, vươn lên bằng chính cái tâm và sự linh nghiệm bằng tài năng, đạo đức, trí tuệ và sức khoẻ của chính bản thân mình. Tôi xin hỏi rằng:
Chẳng có lẽ Phật Thánh và Thần Tiên ngày nào cũng như một bác sĩ khám bệnh ở bệnh viện 24/24 giờ để ngồi chờ ở đền, chùa chỉ để nghe mọi người đến kể khổ và cầu xin?!
Có nhiều người thắp một nén nhang bỏ vài trăm ngàn đồng vào mâm lễ để cầu xin cho một việc kinh doanh buôn bán hàng triệu đô la! Chẳng lẽ tâm linh mà dễ vậy hay sao? Phật, Thánh, Thần, Tiên cũng không phải là người làm thuê của ta, để ta muốn cầu cái gì thì Phật, Thánh, Thần, Tiên phải làm theo ý mình! Trong khi đó bản thân ta không phải là một linh thần cũng chẳng là một vĩ nhân! Do vậy Phật, Thánh, Thần, Tiên cũng không có nghĩa vụ phải làm những việc mà ta yêu cầu! Cho dù nếu ta có là vĩ nhân đi chăng nữa thì Phật, Thánh, Thần, Tiên cũng không vì điều đó mà phải phù hộ cho ta! Tôi lại hỏi: Có ai đó nghĩ rằng, những bức tượng đang ngồi trước mặt mình liệu có phải là "Chân Thần của Phật Thánh, Thần Tiên" thật hay không? Hay đó chỉ là linh hồn Ma Quỷ hoặc linh hồn của một con linh quái Cáo, Chồn, nào đang ngồi ở đó? Sợ rằng câu hỏi này của tôi sẽ làm cho nhiều người thất vọng! Bởi đó không phải là "Chân Thần"! Thần Linh không phải là vạn năng, huống chi những người như tổ tiên đã qua đời thì còn rất hạn chế về quyền năng. Do vậy họ có muốn phù hộ cho ta cũng chỉ ở mức hạn chế, ta phải biết rằng, vong hồn của người âm khi chưa tu luyện thành "Ma Tiên" thì năng lượng ấy là năng lượng âm, còn lưu lại cái suy bại, đau khổ!  Nếu ngày nào cũng lo lắng nhang khói, thờ cúng người âm thì vô tình ta đã lấy những năng lượng suy bại, sự ốm đau cho chính ta. Đạo hiếu là cốt cách nhân phẩm đáng quý nhưng kính tụng trong tâm và luôn tưởng nhớ đó là giá trị chân thực. Rất nhiều điều tâm nguyện trong tâm mình đã đủ thì sao còn cần làm nghi lễ quá nhiều cho ai xem? Đó chính là Tâm Linh, sự linh ứng trong tâm mỗi người. Tất cả mọi hoạt động tín ngưỡng cũng nên vừa phải, khi hỏi Phật, Thánh, Thần, Tiên nhiều quá thì sẽ trở thành người ỷ lại mà không biết tìm nguyên nhân! Do vậy ta sẽ không bao giờ có tinh thần nghĩ lại mình và từ đó hình thành thói tự lợi, việc quá chú trọng đến thờ cúng có thể ta nghĩ đó là hiếu đạo, là văn minh, nhưng thực tế lại là một sự biểu đạt suy nghĩ cho tham vọng!

Một khía cạnh nữa mà tôi muốn đề cập đến, đó là phong tục cứ lễ tết là phải tặng quà? thậm chí có người còn mong muốn, đua tranh nhau tặng quà? Điều này cuối cùng sẽ hình thành một sự so sánh nhiều hay ít, xấu hay đẹp, và biết thế nào là đủ?! Tự mình đã đặt cho mình một cái áp lực, tạo ra bầu không khí căng thẳng mỗi khi lễ tết và nết sống xã hội trở thành trạng thái dẫn dụ mọi người thành thói quen ham danh, muốn nhận quà, muốn trục lợi, muốn tham nhũng, chỉ muốn ăn ngon, mặc đẹp, nhà lầu, xe hơi... mà không muốn làm việc!  Khi đến làm việc ở cơ quan không có tinh thần đoàn thể, đi muộn, nhưng đến giờ nghỉ thì vội vã chạy nhanh về sớm... Hình thành thói quen làm ít mà chỉ muốn tăng lương, hoặc nghĩ mọi cách kiếm tiền...?! Xã hội như vậy tạo ra con người thiếu trách nhiệm, không muốn đảm đang nhiệm vụ, nhưng nếu như có chuyện gì xảy ra thì chính những con người ấy, sẽ là người đầu tiên chạy trốn mất! Hơi có một tý khó khăn thì lại lên chùa, lên đền cầu khấn Phật, Thánh, Thần, Tiên... Những câu khấn thì kể lể khổ sở? Nhưng văn hoa thì lại trau truốt từng ý, để mong muốn điều tốt cho mình, thậm chí có người còn muốn khấn hay làm bùa phép cho đối thủ của mình chết đi?!!! Chẳng muốn bỏ ra một đồng, nhưng lại muốn có những nguồn lợi lớn trong làm ăn?! Điều này sẽ rèn luyện cho con người một "Công năng đặc biệt" mà ta gọi là "Khẩu Tài" đó là khả năng "Uốn Lưỡi" rất tốt! Chính vì sự tham vọng danh lợi, mà xã hội sẽ xuất hiện những ông thầy phù thuỷ, thầy bói, thầy cúng... Lừa đảo và tận dụng sự lười biếng của những kẻ chỉ lo cầu cúng để đi làm "Nghiệp Vụ"! Vô tình họ đã lợi dụng giá trị Tâm Linh để phá hoại chính Tâm Linh!  Chung quy thì thầy bà, hay cúng lễ Phật, Thánh, Thần, Tiên thiếu sự chứng nghiệm của Tâm và Linh thì chưa cho cho ta được thành quả của việc cầu nguyện, mà đã cho ta hậu quả của mất tiền, lười biếng và tự ti! Cuối cùng những người có đức hạnh có tài năng không được trọng dụng trong xã hội, mà kẻ uốn ba tấc lưỡi, tham nhũng, lừa đảo thì ngang nhiên hoành hành! Làm cho những người tốt hẫng hụt mất cân bằng tâm lý, khiến họ lại vào chùa bái Phật Thánh, Thần Tiên, hoặc tìm đến gặp những ông thầy.... Câu chuyện này đang diễn ra trong cuộc sống xã hội Tâm Linh Việt Nam. Một quốc gia muốn phát triển, thì từ lãnh đạo đến người dân cần phải làm tốt từ việc nhỏ, không phải chỉ làm bằng cái mồm mà tay chân không nhúc nhích. Hàng triệu người từ nhà nước đến người dân chỉ hô hào mà không tự mình thay đổi, không làm nhưng lại chỉ muốn hưởng thụ, thì điều tất yếu sẽ sinh ra lừa đảo!  Đã không làm được nhưng lại nói cho hay để đánh lừa người khác, mà đặc biệt là những người có chức sắc, những người là lãnh đạo... Có nhiều người bực tức phẫn nộ nhưng tâm lực không đủ, tâm trí kém, tâm pháp không có, và tâm linh thiếu chứng nghiệm mà không dám nói ra!  Có người tham quyền cố vị ham danh hám lợi thì đến cầu Phật Thánh, Thần Tiên để được yên vị hay thăng quan tiến chức, nhưng khi dành được chức quyền thì lại làm không tốt, công việc không thuận lợi...thì lại đi thỉnh giáo Phật Thánh, Thần Tiên để mong cứu khổ cứu nạn! Đó là chưa kể đến nhiều người dựa vào Tâm Linh để xây đắp đền chùa buôn thần bán thánh thì vận khí của xã hội sẽ đi đến đâu?! Tôi rất mong mỏi mỗi người chúng ta tin vào tâm linh và tự mình chứng nghiệm, tự mình tu tâm đức, để tạo ra một môi trường tâm linh trong sáng đúng với bản chất tự nhiên của vũ trụ, sự phát triển của mỗi chúng ta, của xã hội mang lại cuộc sống an lạc thanh tịnh và văn minh của nhân loại.
             



[1] GS Võ sư, Viện NC&UDTNCN