Thứ Tư, 4 tháng 10, 2017

Văn minh và Vô minh

Bài đăng trong kỷ yếu Hội nghị khoa học toàn quốc về "Nghiên cứu và sử dụng khả năng đặc biệt của con người" do Viện Nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng con người đăng cai tổ chức cùng 10 đơn vị đồng tham gia.

VĂN MINH & VÔ MINH
Võ Xuân Tòng
A. VĂN MINH & VÔ MINH
Văn minh thường được thể hiện qua câu “Văn minh phương Tây” (VMPT). Còn vô minh được người đời sử dụng khá tùy tiện, bởi chẳng mấy ai biết vô minh là câu nói của ngài Siddhartha Gautama về sự kém hiểu biết Tri kiến Phật của con người chứ không đơn thuần là sự dốt nát đời thường. Tri kiến Phật (Tri comments of Buddha – TriCB) hay còn gọi là Thuyết của Phật (Theory of Buddha – TheB).
Do đó, một đất nước dẫu có được VMPT, hoặc một cá nhân đoạt giải Nobel chưa từng tiếp cận TriCB gần như không có khả năng xóa bỏ vô minh. Nói cách khác, một người giàu có, thành danh, thành đạt,.. nếu chưa một lần đọc TheB sẽ không biết mình vô minh chỗ nào. Còn ông Trời, ngài luôn tìm cách cân bằng, phương Tây có văn minh, thì phương Đông có minh triết. Từ đấy, mệnh đề “Văn minh phương Tây” và “Minh triết phương Đông” luôn đi cùng nhau, như câu cửa miệng nhắc nhở con người cần khiêm tốn và cảnh giác trước sự hào nhoáng do vật chất đem lại.
Kể từ lúc loài người liệt kê được một số ĐẠO nơi phương Đông như Veda của Ấn giáo, Đạo của Lão Tử, TheB của Siddhartha Gautama, Kinh dịch của Á Đông,… thì chưa ai khẳng định minh triết thuộc về tác phẩm nào. Chỉ đến khi NASA công bố một loạt kết quả nghiên cứu thiên văn-vũ trụ vào năm 2014-2016 và thiết bị kỹ thuật số ghi nhận được các bằng chứng tường minh về sự tồn tại của linh hồn/thần thức từ thực tiễn, chúng ta mới ngộ ra: MINH TRIẾT chính là TheB.

B. MINH TRIẾT TheB
Chúng ta thường nói “Triết học là khoa học của mọi khoa học”, nên triết học phải đi trước khoa học, làm nền tảng cho khoa học. Đây là một vấn đề cần xem lại, khi thực tế nghìn năm qua không có gì đảm bảo cho triết học làm đúng vai trò như vậy. Theo tôi, cái gọi là triết học vừa qua phần lớn là sự ngộ nhận khi đề cao tư duy chủ quan của một vài người được gọi là nhà thông thái. Đến mức, cái mác “vĩ nhân”, “vĩ đại” cộng với “bộ râu hiền triết” của triết gia làm ta lóa mắt, lầm tưởng mọi câu chữ của họ đều là chân lý.
Do đó, quá trình nhận ra TheB là công trình khoa học tự nhiên còn là con đường nhận thức triết học. Một khi TheB là công trình khoa học duy nhất mô tả được thế giới tự nhiên & thế giới siêu nhiên, trong đó có sự sống của chúng sinh hữu hình & vô hình, thì TheB trở thành triết học duy nhất có câu trả lời hoàn hảo cho nhiều vấn đề triết học cơ bản mà không một triết học nào làm được. Trong đó có bốn câu hỏi muôn thủa của loài người: Ta là ai? Ta từ đâu đến? Ta đến đây để làm gì? Ta sẽ đi về đâu? Lúc ấy, mặc nhiên TheB là MINH TRIẾT.
Triết học đúng nghĩa phải được sinh ra từ quá trình tất yếu đó. Nó phải được khởi nguồn từ công trình khoa học tầm vũ trụ, bao quát cả tự nhiên & siêu nhiên – hữu hình & vô hình, chứ không phải bắt đầu từ các thành tựu khoa học rời rạc nơi trái đất, tập tễnh đi từ đơn bào đến đa bào, lóc cóc qua các kỳ cổ-trung-đại, rồi thấp thỏm chờ thời gian kiểm chứng. Đã nhiều lần nhân gian chứng kiến các cuộc tranh biện triết học nảy lửa và không ít lần thực tế đã phải ra tay chọn lọc lại, thì hỡi ôi: Chiến tranh và xung đột vẫn không ngừng nghỉ, chúng nhởn nhơ ghé nhòm những cuộc cãi vã liên hồi ở các câu lạc bộ triết gia.
Sau hàng chục thế kỷ, kể từ khi loài người có Veda & Upanishads (thế kỷ XV-TCN) nhân loại vẫn mò mẫm đi tìm minh triết. Đến cuối thế kỷ XX thế giới bắt đầu nói đến “Minh triết phương Đông” như thể loài người cảm thấy minh triết không thể có ở phương Tây; mặc dù triết học phương Tây lúc này vẫn ảnh hưởng mạnh đến tư tưởng ở cả hai bán cầu, thông qua hai kênh: khai phá văn minh và đầu tư công nghệ mới, trải suốt từ thế kỷ XIX sang thiên niên kỷ thứ ba. Để hôm nay, văn minh phương Tây, văn minh kỹ thuật số của thế kỷ XXI đã giúp chúng ta chọn ra trong số triết học phương Đông kia triết học nào là MINH TRIẾT.
Vì sao TheB được khẳng định là minh triết? Bởi:
I. TheB là triết học duy nhất trả lời hoàn hảo bốn câu hỏi muôn thủa của loài người – four.Q: Ta là ai? Ta từ đâu đến? Ta đến đây để làm gì?Ta sẽ đi về đâu? – một cách có hệ thống.
II. TheB là công trình khoa học tự nhiên vĩ đại nhất của nhân loại hôm qua, hôm nay và cả mai sau, thể hiện qua 5 nội dung: (1)-TheB có cấu trúc một công trình khoa học tự nhiên; (2)-TheB bao hàm toàn bộ những “nguyên lý mới – yếu tố mới”; (3)-TheB có những trùng khớp cơ bản chính xác với khoa học hiện đại; (4)-TheB có những kiến thức vượt xa khoa học; (5)-TheB có sự trùng khớp đặc biệt với kết quả ODL ở đầu thế kỷ XXI.
Phần (I) là hiển nhiên, không cần chứng minh vì TheB là duy nhất trong tất cả các triết học Đông-Tây thỏa mãn tiêu chí four.Q. Phần (II) cần làm sáng tỏ, không phải vì cách nay 85 năm, bằng dự cảm của một thiên tài Albert Einstein từng nói: “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó”;… Albert Einstein từng phát biểu: “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao trùm khoa học cũng như vượt xa khoa học” (ở đây, “Phật giáo” là Đạo của Phật – Đạo Phật – là tri kiến Phật. Do đó, không thể đồng nghĩa Đạo Phật với những gì Phật giáo đang thể hiện, khi tôn giáo này đã có nhiều biến thể theo thời gian).
Albert Einstein còn nói: “Ngay cả khi các lĩnh vực tôn giáo và khoa học được phân định rõ ràng thì chí ít vẫn tồn tại giữa chúng những mối quan hệ sâu sắc mang tính tương hỗ và phụ thuộc lẫn nhau… Ta có thể mô tả tình huống này qua hình ảnh sau: khoa học không tôn giáo thì khập khễnh, còn tôn giáo không khoa học thì mù lòa.”
Nếu ngày nay (hay mai sau) khoa học không làm sáng tỏ được TheB là minh triết, thì những lời khuyến cáo trên của Albert Einstein trở thành vô nghĩa. Nhà bác học chỉ là thiên tài trong lĩnh vực vật lý, và thiên hạ vẫn kháo nhau về những năm “vô bổ” cuối đời của ông, khi Albert hứa đi tìm một trường thống nhất cho vậy lý, thì Einstein lại đưa ra “một trường thống nhất” cho tôn giáo bằng một tôn giáo toàn cầu, với nền tảng là Phật giáo.
May thay, Albert Einstein không chỉ thành công trong vật lý ở nửa đời trước, ông còn thành công ở nửa đời sau khi chúng ta nhận ra Einstein là nhà triết học lớn nhất ở cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI. Khiến những ai yêu mến đức Phật và Einstein thở phào: Lời đức Phật chính xác như kim chỉ nam, và Einstein nhận xét về TheB xác đáng như một học trò xuất sắc của đức Phật. Cụ thể ở đây là:
1. TheB có cấu trúc một công trình khoa học tự nhiên:
a. TheB là giáo trình “Tri kiến Phật – TriCB” được đức Phật soạn riêng cho người Jambudipa (chúng ta). TriCB là tài liệu có sẵn trong vũ trụ, được xây dựng bởi các vị Phật qua nhiều chu kỳ cycle.C của vũ trụ (cycle.C = thành - trụ - hoại - không). Các vị Phật và đại Bồ-tát có nhiệm vụ làm cho cư dân trong toàn vũ trụ hiểu được TriCB.
b. Trong vũ trụ có một nhóm gồm 16 vị Phật toàn giác (Sadibotat) lập thành một “Tổ chức trung ương các vị Phật”: COSMOS.BUDDHA. Mười sáu vị Sadibotat này có trách nhiệm thuyết giảng TriCB ở 9 phương của vũ trụ. Trong đó, phương có đại galaxy Taba do đức Sadibotat-XVI làm chủ; ngài có nhiều tên, Siddhartha Gautama là một cái tên khi ngài hiện thân Phật tại trái đất. Trong đại galaxy Taba có 5 loài chúng sinh, cư trú rải rác tại những cụm không gian Ω.
c. TheB có cấu trúc khoa học, bao gồm ba phần chính và một phần phụ: Nacos; NasociJ; Tứ diệu đế (ariya saccani); Phần phụ nói về năng lực của các vị Phật.
♦ Phần tự nhiên của vũ trụ Nacos (Nacos = the nature of the cosmos): là tập hợp những điều mô tả thực về không gian và chúng sinh có trong vũ trụ.  Là phần có dung lượng ít nhất, khó hiểu nhất (“Bất khả tư nghị”).
♦ Phần NasociJ (NasociJ = the nature of social Jambudipa) soạn riêng cho chúng ta. Là tập hợp những kiến thức nói về: nguồn gốc; chủng loại; mối quan hệ giữa con người với nhau; mối quan hệ tương hỗ giữa loài người với những chúng sinh khác.
♦ Phần quan trọng nhất: Vô minh và cách thoát khỏi vô minh (moksha); có dung lượng nhiều nhất, chứa thuyết “Tứ diệu đế” (ariya saccani). Vô minh là đặc tính cố hữu của tất cả các chúng sinh. Những loài thấp kém như súc vật vô minh nặng, gần như không có cơ hội giải phóng. Loài người chỉ đứng trên súc vật về hàng trí tuệ. Hai phần Nacos và NasociJ là kiến thức bổ trợ để chúng sinh thoát khỏi vô minh. Moksha là phương tiện để thoát khỏi vô minh vĩnh viễn.
♦ Phần phụ nói về năng lực của các vị Phật, thể hiện qua phương pháp nghiên cứu khoa học “Tứ thần túc” (mang tầm vũ trụ) của đức Siddhartha Gautama; và phương pháp nghiên cứu khoa học “Thiền định” của học trò và nghiên cứu sinh.
2. TheB bao hàm toàn bộ những “nguyên lý mới – yếu tố mới”:
Hiện tượng siêu nhiên, bí ẩn là những bằng chứng cụ thể đã được ghi nhận từ thực tế mà chúng ta không thể được giải thích bởi các lý thuyết hiện hành (nguyên lý cũ). Theo thời gian nó trở nên bí ẩn, thách thức mọi người. Cho đến một ngày nào đó nó sẽ trở thành cơ hội để thiết lập các nguyên lý mới (lý thuyết mới). Ví dụ như, với nhà sinh học Robert Edwards (giải Nobel y học 2010): “Đối với tôi thì trên thế giới này chỉ có ba thứ mà tôi cảm thấy mơ hồ nhất, nó khiến tôi và dường như tất cả mọi người vô cùng tò mò, đó là: tâm linh, vũ trụ và bộ não con người”.
Có thể nói, hiện tượng siêu nhiên-bí ẩn là động lực cho sự phát triển của khoa học; trong đó linh hồn là một trong những bí ẩn lớn nhất của mọi thời đại, nó ẩn đâu đó trong các hiện tượng siêu nhiên ngay bên cạnh chúng ta. Khi những hiện tượng huyền bí làm phản biện cho khoa học, cũng là lúc nó gợi ý những nguyên lý mới cho khoa học. Do đó, dùng nguyên lý cũ không bao giờ có thể phán xét hay giải thích được những hiện tượng thuộc về nguyên lý mới.
Albert Einstein nói: “Tất cả các ý tưởng khai phá trong khoa học tự nhiên được sinh ra từ những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng giữa thực tại và các nỗ lực của chúng ta để hiểu nó. Ở đây chúng ta lại có một trong những vấn đề trước mắt chúng ta mà lời giải đáp cần đến là những nguyên lý mới”.
          Nghiên cứu của tôi đã thu thập được 11 hiện tượng siêu nhiên vây quanh con người, như: Những tổn thương về não người và động vật - [center.C và vật chất cấu trúc nó]; Thần đồng trong nhiều lĩnh vực - [trí tuệ có sẵn ở center.C]; Các trường hợp tái sinh, đầu thai trên thế giới - [tái sinh, đầu thai, kiếp, nghiệp]; Ý thức trong vô thức - [chương trình có sẵn ở center.C]; Linh hồn là một thực thể vật lý đang tồn tại trong con người thông qua nghiên cứu cận tử NDE-SDE của các bác sĩ phương Tây - [linh hồn, thần thức]; Xá lợi của các bậc cao tăng [Evutru];… Từ đây chúng ta lập được một bảng yếu tố mới, và TheB đã bao hàm toàn bộ các yếu tố này từ năm 524-TCN. (xem thêm tài liệu [2]/[3])

BẢNG YẾU TỐ MỚI
Linh hồn
Thần thức
Đầu thai
Tái sinh
Người trần
Người âm
Người trời
Bề trên
Cõi trên
Thần thông
Thiển định
Hóa thân
Vô thức
Chữ thiên
Chân sư
Kiếp
Nghiệp quả
Luân hồi
Thể, thể xác, thể Phách, linh thể
Xá lợi
center.C 
Vật chất cấu trúc centre.C
Vật chất cấu trúc thể phách
Evutru

3. TheB có những trùng khớp cơ bản chính xác với khoa học hiện đại:
(1)-Các tác giả của TheB là những người có quan điểm khoa học “thực chứng luận” (nôm na là mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, tay sờ); (2)-TheB khẳng định trong vũ trụ không có Thượng đế, Chúa trời, đấng Tạo hóa; (3)-TheB khẳng định có ngày tận thế (vũ trụ sụp đổ) và có ngày khai thế (vũ trụ hình thành), lúc ấy loài người như những hành tinh khác sẽ được hình thành trở lại; (4)-TheB khẳng định: trong vũ trụ có vô số thiên hà, hành tinh và hệ mặt trời; sự sống trên trái đất không phải là duy nhất trong vũ trụ; người ngoài hành tinh là có thật; (5)-TheB mô tả ba người ngoài hành tinh láng giềng (neighbor-alien): Pubbavideha-alien, Godaniya-alien, Uttarakuru-alien đều tọa lạc trên trái đất; trái đất của họ nằm trong thái dương hệ; ở đấy cũng có nước (H2O) và cây xanh; hình dáng con người được mô tả bằng đơn vị chiều dài và cân nặng; xã hội có những phong tục tập quán đặc trưng; (6)-TheB khẳng định loài người trên các hành tinh, kể cả loài người trên trái đất đều có nguồn gốc từ nơi khác trong vũ trụ tới (có nguồn gốc siêu nhiên – Abhassara); (7)-TheB mô tả: trái đất là một tinh cầu lơ lửng giữa hư không. Chúng ta biết rằng, đến thời Nicolaus Copernicus, thế kỷ thứ XVI nhân loại mới nhận ra: trái đất là một hành tinh chuyển động giữa không gian; (8)-TheB mô tả nước mặn (và H2O) từng có mặt khắp vũ trụ, trùng với nghiên cứu mới đây của NASA trên các hành tinh sao thổ và sao hỏa (9/2015, tin chấn động); (9)-TheB mô tả nước (H2O) có trên trái đất trước khi có mặt trời, trùng với nghiên cứu mới nhất của NASA (4/2014 và 11/2015, tin chấn động); (10)-TheB mô tả có vô số hành tinh, thiên hà. TheB còn mô tả trong vũ trụ có khoảng 180 PSVTSTG, tạm diễn dịch là “180 tinh vân lộ thiên được quan sát bởi đức Phật”, ví dụ: 10 PSVTSTG hình nước xoáy; 10 PSVTSTG” hình trục xe; 10 PSVTSTG hình nhà lầu;... Điều này phù hợp với những nghiên cứu của ngành thiên văn học, khi chúng ta mới nhìn thấy hình hài tinh vân kể từ khi có kính viễn vọng Hubble năm 1990 và Kepler năm 2009. (11)-Gần đây, đầu tháng 05/2016 NASA công bố tin chấn động: Kính Kepler khám phá được tổng cộng 1.284 hành tinh mới bên ngoài hệ mặt trời; ước tính có 10 tỷ hành tinh ở dải Ngân Hà có khả năng tồn tại sự sống; có 9 hành tinh được xác định có quỹ đạo quay xung quanh mặt trời của nó ở một khoảng cách vừa đủ. “9 hệ mặt trời” này là con số quá nhỏ so với TheB miêu tả có “n lần 10^9 hệ mặt trời”; (12)-Hai tháng sau, ngày 10/07/2016, NASA công bố tin chấn động khẳng định “nước ở ngoài hệ mặt trời”, khi phát hiện mây của sao lùn nâu “WISE 0855” chứa nước (H2O); (13)-Một tháng sau, ngày 24/08/2016, Tổ chức nghiên cứu Vũ trụ châu Âu tại bán cầu Nam (ESO) công bố phát hiện bản sao trái đất “Proxima b”, cách chúng ta hơn 4 năm ánh sáng. TheB mô tả trong vũ trụ có vô số trái đất có sự sống biolife; (14)-Với những vật thể nhỏ, đức Phật và đệ tử của ngài nhìn rõ trong không khí, nước có vô số vi sinh vật (vi khuẩn) mà mắt người nhìn không thấy để chỉ cho học trò biết: họ đang thở và uống nước cùng với những loài vi sinh. Phải đợi đến lúc có kính hiển vi vào năm 1590 – được chế tạo bởi ba người Hà Lan là Hans Lippershey, Zacharias Janssen, Hans Janssen –  loài người mới có thể quan sát được những vi sinh này; (15)-Với sinh học, TheB chỉ ra bốn kiểu sinh sản ở các loài hữu hình: thai sinh; thấp sinh; noãn sinh; hóa sinh. Đến thế kỷ XIX-XX loài người mới nắm được các hình thức sinh sản này ở các loài; (16)-Với toán học. Trong TheB, đức Phật đã dạy cho loài người ứng dụng phép tính cấp số cộng và cấp số nhân. Chúng ta biết rằng, đến thế kỷ XIII loài người mới biết cấp số cộng và cấp số nhân bởi người Pháp tên là N.Chuquet 1445-1500. Những con số để mô tả số lượng tạo thành hệ thống đếm, như: a-tan-ki = 10^26; bat-tu-nghi = 10^28; vo-lương = 10^30;... để đức Phật mô tả vũ trụ, chúng sinh; mà ngày nay khoa học mới vươn tới số “10^12” và hướng tới số “10^16”; (17)-Với y khoa. Trong TheB, đức Phật thống kê được 404 thứ bệnh. Sau này y lý Tây Tạng đã tiếp thu và đã kiểm chứng nó, và giữ con số “404” đến tận ngày nay. Người Tây Tạng có thể vẽ và miêu tả hình ảnh 38 tuần tuổi của thai nhi trùng khớp chính xác với hình ảnh được chiếu chụp bởi thiết bị hiện đại ở đầu thế kỷ XXI. Do đó, con số “404” đã nói lên sự trùng khớp cơ bản giữa TheB và y khoa Tây Tạng – biểu tượng của nền y khoa hiện đại, có từ nghìn năm trước; (18)-Chưa thấy đức Phật dùng pháp thuật chữa bệnh cho học trò. Ngài thường sử dụng cây thuốc trong rừng và nước tiểu làm thuốc chữa bệnh như một Đông y sĩ; (19)-Hỏa táng người chết là cách làm văn minh nhất ngày nay đã được đức Phật áp dụng cho chính mình và cho Tăng đoàn; (20)-Mặc định nguồn gốc dinh dưỡng của con người. Y khoa dinh dưỡng cho biết: cơ thể con người phải có các chất ngọt, béo và tinh bột. Mặc định này chính là do nguồn gốc “mật-bơ-lúa gạo” (nêu trong nguồn gốc loài người của TheB) đã cấu trúc cơ thể con người từ thủa hồng hoang. Cho đến nay, nếu không được TheB cho biết thì không ai có thể lý giải được mặc định này; (21)-Trong TheB, những ngành nghề phổ biến trong xã hội được đức Phật thường xuyên minh họa cho bài giảng, như phương pháp sư phạm “lấy thí dụ từ thực tiễn”. Khi đọc những ngành nghề này từ TheB sẽ thấy sự am hiểu kỹ thuật ở mức độ “know how” của đức Phật như một kỹ sư công nghệ thực thụ.
4. TheB có những kiến thức vượt xa khoa học:
(1)-Phương pháp nghiên cứu khoa học “Tứ thần túc” (thiền định); (2)-Di chuyển trong không gian toàn vũ trụ; Liên lạc trong không gian toàn vũ trụ (viễn thông); (3)-Kết nối từ một vị Phật (máy tính chủ) tới cá thể chúng sinh (máy tính cá nhân) để lấy dữ liệu quá khứ, đọc suy nghĩ (tin học); (4)-Ánh sáng tối; Năng lượng tối; (5)-Hình thành và sụp đổ của vũ trụ và chu kỳ cycle.C: ngày tận thế và ngày khai thế và khả năng tồn tại của chúng sinh; (6)-Mô tả về hành tinh, đại galaxy (tinh vân) trong vũ trụ; (7)-Mô tả về người ngoài hành tinh láng giềng trong không gian Ω1; (8)-Kết nối liên hoàn sự sống và cái chết bằng sự chuyển hóa giữa các loài chúng sinh MASB; (9)-Vô minh và sự giải thoát (nhân văn); và nhiều vấn đề khác.
5. TheB có sự trùng khớp đặc biệt với kết quả ODL ở đầu thế kỷ XXI:
v    Theo TheB, con người có hai thành phần chính:
THỂ XÁC & THẦN THỨC = HỮU HÌNH & VÔ HÌNH = TỰ NHIÊN & SIÊU NHIÊN
v    Mỗi khi thể xác mất đi, thần thức thoát ra:
1.                Chuyển hóa (đầu thai) trở lại làm cư dân hạ giới (người/ súc vật), hoặc
2.                Chuyển hóa trở thành cư dân trung giới/cư dân thượng giới có thân hình ánh sáng bay trong không gian:
Ø  Cư dân trung giới ở tầng thấp: linh hồn/ hương linh (ngạ quỷ).
Ø  Cư dân ở tầng cao (lửng): atula.
Ø  Cư dân thượng giới ở tầng rất cao (26 tầng).
Ø  Cư dân siêu thoát hoạt động khắp vũ trụ: các vị Phật và các vị đại Bồ-tát.
v    ODL (orb of dark light - hình cầu ánh sáng tối):
Ánh sáng tối là ánh sáng mắt người  không nhìn thấy, nhưng “mắt” của nhà ngoại cảm, chân sư, thiết bị công nghệ có thể nhìn thấy. ODL chính là cư dân trung giới/cư dân thượng giới (TrG/ThG) có thân hình ánh sáng bay trong không gian, đã được ghi nhận bằng thiết bị kỹ thuật số.
Đến thời điểm này có 10 nghiên cứu khoa học về hình dáng của cư dân trung-thượng giới. Trong đó có: bốn chứng thực của các chân sư; hai chứng thực của nhà ngoại cảm; một chứng thực của bác sĩ; ba nghiên cứu độc lập được ghi nhận qua nghiên cứu cận tử NDE&SDE của các bác sĩ, và thiết bị kỹ thuật số (PhoS, ClipS).

Phần này mời quý vị tham khảo thêm tài liệu “Nền văn minh chợt tắt” [2] (NXB HNV, 3/2015) và “Báo cáo khoa học, 25/12/2015: Những sai lầm thiên niên kỷ của nhân loại” [3], hoặc có thể xem ảnh màu và chuyển động của cư dân TrG/ThG trên youtube qua video clip: “Họp báo: Lý giải UFO xuất hiện ở Việt Nam” [4]. Ở đây chỉ có thể minh họa qua vài ảnh đen trắng PhoS và ClipS.
Cư dân TrG/ThG (PhoS, ở VN): Bay trên trời ngày – Bay trên trời đêm –  Bay gần con người – Bay trên đường phố
Cư dân TrG/ThG (ClipS): Bay trong bảo tàng Mỹ – Bay trước nhà thờ Ukraina – Bay ở độ cao ISS (NASA) – Bay quanh tượng Phật ở Việt Nam.

Từ đây chúng ta xây dựng những khái niệm khoa học mới (định nghĩa mới), qua đó chỉ ra những sai lầm thiên niên kỷ và cơ hội bứt phá của nhân loại.

C. NHỮNG KHÁI NIỆM KHOA HỌC MỚI (tóm lược, mời xem thêm [2]/[3])
(1)-Về sự sống: Sự sống trong vũ trụ bao gồm sự sống sinh học (Biolife, có giới hạn) và sự sống vật lý (Phylife, vô hạn). Trong đó sự sống vật lý là quyết định, nên con người chỉ có cái chết của thể xác, sự sống vật lý của chúng ta là mãi mãi và bị quy luật chuyển hóa giữa các loài chúng sinh – MASB chi phối. Do đó, nguồn gốc của loài người không phải là biolife ở trên trái đất, mà là phylife có từ ngoài trái đất. Vì vậy, siêu thoát & niết bàn không phải là vấn đề tâm lý viển vông, nó là hiện thực, nên kiếp người là vô giá. Có thể nói, sự kết hợp hai dạng sống biolife và phylife trong một con người là một “sáng tạo” của vũ trụ, xuất phát từ sai lầm “chết người” của những vị trời-Abhassara.
(2)-Về con người: Con người là một chúng sinh gồm hai thành phần hữu hình và vô hình. Con người có nhiều thể: thể xác; thể phách; linh thể;.. Nguồn gốc của con người là nguồn gốc thần thức – phylife: vị trời Abhassara. Ở một dạng đơn giản ta có thể biểu diễn con người qua biểu thức khối lượng m và năng lượng E duy trì hoạt động cho các dạng sống biolife & phylife: “mH = mB + mP + mS” và  “EH = EB + EP + ES”. Con người chịu tác động của quy luật vũ trụ (Nacos, MASB), và có khả năng tiếp thu được TheB để giải thoát khỏi kiếp chúng sinh vô minh.
(3)-Về não: Não không phải là trung tâm điều khiển & tư duy, nó là một bộ phận phụ cho trung tâm điều khiển & tư duy center.C. Trung tâm center.C này chính là ODL thần thức (xem thêm tài liệu “Kỷ yếu hội thảo khoa học IHP ngày 29/01/2015” [1]).
(4)-Về cái chết của con người: Không có cái chết của con người, chỉ có cái chết của thể xác biolife, và sự sống phylife là mãi mãi. Thời điểm chết của sự sống biolife là thời điểm chuyển hóa MASB của linh thể. Cái chết của thể xác trong y khoa trước đây dựa trên cái chết não và tim ngừng đập, là cái chết không tính đến sự có mặt của linh thể, do đó không phù hợp với thực tế, dẫn đến những cái chết oan. Có thể nói, cái chết chậm theo mô tả của tạp chí Plos Biology tháng 07/2013 (các tế bào dần bị vỡ ra; cơ thể trắng ra và tím ngắt; cơ thể bị tê cứng; nội tạng tự tiêu hóa; một lớp sáp được hình thành) khả dĩ là tiêu chuẩn cho cái chết trong y khoa: Linh thể sẽ bỏ cái xác đã đến lúc phân hủy, chứ nó chưa bỏ đi khi cái xác chết lâm sàng, thậm chí là tim và não ngưng hoạt động.
(5)-Về triết gia: Khi xem triết học là khoa học của mọi khoa học, hay triết học phải đi trước khoa học, thì triết gia phải là nhà khoa học ở tầm vũ trụ. Triết học là chân lý, thì triết gia phải là người thấu hiểu sự vật và hiện tượng ở cả hai phần tự nhiên & siêu nhiên (hữu hình & vô hình). Do đó có thể nói, triết học được xây dựng từ những triết gia không am tường vật lý chỉ là những ý kiến (triết lý) cá nhân. Những ý kiến cá nhân này phần nhiều là ngộ nhận; khi được nâng thành tư tưởng và triển khai vào thực tế sẽ dẫn dắt nhân loại tụt hậu, sai lầm. Tiêu chuẩn của một triết gia không thể nằm ngoài tiêu chuẩn đã được xác định trong minh triết TheB: Tối thiểu phải là người thực hành được pháp “Thiền định” (meditation). Triết gia trong đàm luận café góc phố có thể là Natural philosopher, nhưng một triết gia đúng nghĩa phải là Meditation philosopher. (dựa lời Phật & Einstein, trong [2])
 (6)-Bẩy sai lầm thiên niên kỷ của loài người: Khi khoa học chưa nghiên cứu đầy đủ hai thành phần tự nhiên và siêu nhiên của vũ trụ, mọi nhận thức của con người trở nên khập khễnh đúng như câu danh ngôn: Một nửa cái bánh mì là bánh mì, một nửa sự thật là giả dối (hay: Một nửa cái bánh mì là bánh mì, một nửa sự thật không phải là sự thật). Thế giới hữu hình là một nửa sự thật, chân lý chỉ xảy ra khi nửa sự thật vô hình được nhận thức (sáng tỏ). Do đó, sai lầm thiên niên kỷ là không thể tránh khỏi. Có bẩy sai lầm thiên niên kỷ cụ thể cần điều chỉnh của loài người, trong đó: Không nhận ra TheB là một công trình khoa học tự nhiên (vĩ đại nhất) là sai lầm lớn nhất của loài người. (xem đầy đủ ở [2]/[3])
 (7)-Phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc: Con người là tổng thể của khối lượng và năng lượng (mH; EH), thì phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc đã có từ nghìn xưa là điều hiển nhiên. Đức Jesus chữa bệnh cho người Israel là một trường hợp điển hình có một không hai kể từ năm 524-TCN đến ngày nay, với thần thông ở cấp độ cực kỳ cao. Ở Việt Nam đã tồn tại trường hợp cụ Nguyễn Đức Cần, và hiện đang có một số người có khả năng này với thần thông cấp độ thấp/sơ cấp. Theo tôi, khi nghiên cứu phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc, kết hợp với chức năng mới của não, có thể sẽ dẫn đến phương pháp chữa bệnh mang dấu ấn của công nghệ thông tin (gõ bàn phím), mà tiền đề là phương pháp Diện Chẩn được phát triển bởi GS.TSKH Bùi Quốc Châu.
(8)-Can dự của thế giới tâm linh: Thiên hạ đồn rằng “Thế kỷ XXI là thế kỷ của tâm linh”: Đây là chuyện hoang đường hay sự thật? Nghiên cứu của tôi cho thấy đây là sự thật. Ở đấy “thế giới tâm linh” đậm chất văn học được thay bằng “thế giới chân sư” đầy hiện thực. (phân tích ở [2]/[3]).
(9)-Bài học lớn nhất. Giải thoát trở về với cội nguồn tinh khiết vị trời - Abhassara hay COSMOS.BUDDHA: Đó là bài học lớn nhất được rút ra từ nghiên cứu. Trong phạm vi một báo cáo khoa học tóm tắt, chúng ta không thể bàn sâu về bài học này. Tôi hy vọng, bằng nỗ lực chung, bài học lớn nhất này sẽ sớm được đưa ra để nhiều người tham khảo. (nói rõ ở tài liệu [2]).
(10)-Câu trả lời về “UFO-ORB”: Từ 12/5/2015 đến 05/8/2015, các camera trên thế giới ghi được 10 lần UFO xuất hiện ở dạng ORB. “UFO-ORB” xuất hiện từ trong nhà bảo tàng “Space walk of fame museum” ở Florida-Mỹ, ra ngoài sân của nhà thờ Synagogue ở Ukraina, lượn trên bầu trời Osaka ở Nhật Bản, lướt qua của sổ của tàu con thoi Dicovery và ISS, bay lưng lửng trong nhà ở Việt Nam,…
Lần đầu tiên “UFO-ORB” được tôi trình bày ở Hội thảo khoa học ngày 29/01/2015 do IHP tổ chức tại Hà Nội. Nó là một trong ba bằng chứng tường minh về sự tồn tại của linh hồn/thần thức (PhoS, tài liệu [1]). Hôm nay “UFO-ORB” được tỏ hơn khi nó được đặt trong tổng thể minh triết TheB và những ghi nhận “UFO-ORB” trên phạm vi thế giới qua các video ClipS. Ngày 21/07/2016 tại TP.HCM tôi và nhóm khoa học đã họp báo công bố trước thế giới và công luận nội dung khoa học này qua hai tài liệu [2] và [3] (kết quả họp báo trong tư liệu [4] trên youtube).
Kết quả nghiên cứu chúng sinh vô hình cho chúng ta câu trả lời: “UFO-ORB” trong các clip này chính là ODL (orb of dark light – hình cầu ánh sáng tối). “UFO-ORB-ODL” là cư dân trung giới/cư dân thượng giới di chuyển trên bầu trời theo những khối sáng, lúc chập vào, lúc tách ra; có lúc là những ODL đơn lẻ bay thành đàn lướt qua cửa sổ tàu con thoi Dicovery, trạm không gian ISS. Những hình ảnh trong các clip khớp với ghi nhận từ chụp ảnh (PhoS), trong đó thể hiện rõ đặc tính “ODL có thể sát nhập vào nhau thành một khối sáng, bay thành đàn với tốc độ cao” (xem [4]).
ODL bay trên trời, vượt qua tầm cao ISS, nếu không về 26 cõi trời (theo TheB) – nước trời (theo Kinh Thánh), là ODL đi đâu? Rồi đây sẽ còn nhiều người ghi nhận được “UFO-ORB-ODL” bằng camera và chụp ảnh. Sau hội thảo khoa học ngày 29/01/2015 tại Hà Nội, tôi nhận được thông tin: đã có nhiều người ở Việt Nam chụp được ODL. Tôi khẳng định, “UFO-ORB-ODL” xuất hiện mọi nơi, mọi lúc trên toàn thế giới; đến mức con người có thể cảm nhận được ODL là những người thân đang song hành, khi đến ngày “trăm tuổi” chúng ta sẽ gặp lại họ trên trung giới hoặc thượng giới.

D. MỘT VÀI ĐỀ XUẤT
▪ Thứ nhất. Cần nhận thức: Minh triết (TheB) – kim chỉ nam duy nhất cho thế giới hôm qua, hôm nay và mai sau là có thực. Thế giới song hành là có thực. Ở thế giới song song ấy, con người là chúng sinh hữu hình có nguồn gốc vô hình, và sống đan xen với các chúng sinh vô hình khác. Nên sự sống trong vũ trụ gồm có sự sống sinh học (biolife, hữu hạn) và sự sống vật lý (phylife, vô hạn). Do đó con người chỉ có cái chết của thể xác, sự sống là mãi mãi và bị quy luật chuyển hóa giữa các loài chúng sinh MASB chi phối. Và, nếu có thể gửi đến NASA và các nhà thiên văn học trên thế giới, tôi sẽ viết thế này: Thưa các nhà khoa học, những kiến thức về thiên văn vũ trụ nơi TheB đủ cơ sở để thế giới xây dựng ngành thiên văn vũ trụ từ năm 524-TCN. Trong đó, chỉ khoảng 15 dòng tri kiến Phật nói về nguồn gốc loài người TheB đã bao trùm toàn bộ thành tựu của thiên văn học hiện đại đến năm 2016. Khi quý vị NASA đi tìm sự sống biolife trong vũ trụ và người ngoài hành tinh (alien), ngoài yếu tố nước H2O cần tìm, xin quý vị lưu ý thêm yếu tố “mật-bơ-lúa gạo”, bởi minh triết TheB nói rõ: Cơ thể con người và neighbor-alien của chúng ta được hình thành, tồn tại và phát triển từ ba yếu tố này.
▪ Thứ hai. Các nhà vật lý hãy nghiên cứu sâu các bằng chứng tường minh về sự tồn tại của linh hồn/thần thức (INFOS, SFE, SRF, ODL); trong đó, ODL là bằng chứng sinh động được ghi nhận bằng thiết bị kỹ thuật số (PhoS, ClipS). Các nhà y học hãy phối hợp với các nhà ngoại cảm (có khả năng chữa bệnh) nghiên cứu phương pháp “Chữa bệnh không dùng thuốc”. Đây là một cách chữa bệnh siêu việt, không hề viển vông, thần bí, có cơ sở khoa học là những nguyên lý mới và có cơ sở lịch sử từ nghìn xưa. Tôi tin rằng, các nghiên cứu này sẽ bổ trợ cho nhau trên con đường chinh phục thế giới vô hình – cái gốc của con người. Từ đây, chúng ta sẽ khẳng định “linh hồn tồn tại song song với con người bởi những bằng chứng tường minh” ở phạm vi toàn cầu; đồng nghĩa với việc chấm dứt cuộc tranh cãi “linh hồn tồn tại hay không tồn tại” hàng triệu năm qua: là việc làm rất có ý nghĩa về mặt triết học. Tôi nghĩ rằng, nếu được tổ chức tốt, trong vòng 5 năm, khoa học có cơ hội chấm dứt cuộc tranh cãi này trên phạm vi thế giới, mở ra một trang mới cho nhân loại.
▪ Thứ ba. Việc nghiên cứu TheB không nên phó thác cho các nhà sư, lạt ma, luận sư,… phải là các nhà khoa học tự nhiên, trong đó nhà vật lý đóng vai trò then chốt như Albert Einstein từng nghiên cứu và đưa ra lời khuyến cáo: “Nhà vật lý không thể đơn giản giao phó sự trăn trở về những vấn đề nền tảng có tính cách lý thuyết cho nhà triết học; bởi vì anh ta biết tốt nhất và cảm thấy rõ nhất chiếc giày bó ở đâu dưới chân”. Hướng tới việc thiết lập “Ngành vật lý thần thức” và “Viện minh triết”, trong đó vật lý thần thức là cơ sở khoa học, nền tảng; cơ hội cho chúng ta tìm thấy gót chân Achilles trong các vấn đề tồn đọng, thách thức của loài người. Từ đây, thế giới có tiền đề thống nhất được triết học, làm cơ sở để xây dựng một “Minh giáo” chung toàn cầu như Albert Einstein từng tiên đoán.
▪ Thứ tư. Có thể nói, thế giới chưa có một ngày hòa bình. Lịch sử của nhân loại là lịch sử của máu và nước mắt, khiến tuổi thọ của người Jambudipa chúng ta kém nhất trong Ω1. Phải ngăn chặn bằng được CÁI ÁC (giết một vài người là cái ác nhỏ, mất dân chủ hay một triết học sai sẽ dẫn đến giết người hàng loạt là cái ác lớn). Bằng cách nào?
Trong TheB, đức Phật chỉ rõ: Tuổi thọ của người Jambudipa phụ thuộc vào cái ác. Một khi cái ác còn hoành hành ở phạm vi rộng trên thế giới, tuổi thọ con người không thể tăng đều đặn theo từng thế kỷ. Khi cái ác được kiểm soát và giảm thiểu, tuổi thọ sẽ tăng dần lên đến 8.400 năm. Cái ác và cái thiện phụ thuộc căn bản vào sự hiểu biết của mỗi người. Do đó, muốn ngăn chặn cái ác phải xóa bỏ vô minh ở từng cá nhân. Hay nói cách khác: Nguồn gốc cái ác là VÔ MINH.
Thế nên, nhân loại muốn có hòa bình phải dựa vào minh triết TheB và lời khuyến cáo trên của Albert Einstein. Từ đây, chúng ta sẽ xây dựng được một giải pháp hữu hiệu – căn cơ, khả thi, dễ làm, chi phí thấp chỉ khoảng 1‰ chi phí chạy đua vũ trang” (năm 2015, theo SIPRI chi phí này là 1.676 tỷ USD) – bắt đầu từ việc khẳng định của khoa học về sự tồn tại của linh hồn/thần thức ở tầm toàn cầu.
Trước bối cảnh cái ác đang hình thành ở cửa ngõ Biển Đông của tổ quốc, tôi có niềm tin mạnh mẽ, một khi các nhà khoa học ở VAST-VASS bắt tay với các nhà nghiên cứu ở IHP-CIHC-UIA, và các nhà vật lý Việt Nam nhiệt tình hợp tác nghiên cứu thần thức & thế giới song hành, thì cái ác “lưỡi bò chín đoạn” kia sẽ được minh triết TheB hóa giải không tốn một viên đạn. 
▪ Thứ năm. Tổng kết và làm sâu sắc (chuẩn) các báu vật khoa học dưới góc nhìn minh triết TheB.
1. Danh sách hài cốt của các AHLS, nhà cách mạng nổi tiếng, nghĩa sĩ và dân thường ở Việt Nam được tìm thấy bằng phương pháp ngoại cảm vào đầu thế kỷ XXI.
2. Những bằng chứng tường minh về sự tồn tại của thế giới song hành. Trong đó, ClipS bóng sáng tròn (ODL) bay quanh tượng Phật ngọc ở Hải Dương là báu vật đặc biệt.
3. Cuộc đời và sự nghiệp của ngài Nguyễn Đức Cần – cụ Trưởng Cần.
4. Cuộc đời và sự nghiệp của ngài Nguyễn Ái Quốc – cụ Hồ Chí Minh.
5. Liên kết NCKH giữa cư dân hạ giới với cư dân trung-thượng giới (báu vật tiềm năng).
▪ Thứ sáu. Không nên đổ lỗi hay trách móc bất cứ triết học nào còn khiếm khuyết nửa vô hình, bởi các triết gia và cả chúng ta không hề biết có một phương pháp nghiên cứu khoa học thiền định để nhận biết phần siêu nhiên quan trọng này. Không phải triết học ấy mâu thuẫn với minh triết TheB, mà là triết học đó không thể đầy đủ hai thành phần vì nó được xây dựng theo cung bậc phát triển khoa học nơi trái đất, và được hoàn thiện dần dần bởi chính chúng ta – những chúng sinh còn vô minh.
▪ Thứ bảy. Trong tiến trình đi đến sự thay đổi nhận thức toàn diện, Việt Nam có trở thành một trong những dân tộc phổ thông sớm Tri kiến Phật hay không, phần lớn phụ thuộc vào sự nghiệp đổi mới do ĐCSVN lãnh đạo, mà lịch sử Việt Nam đã từng tạo dựng những tiền đề: Thiền sư Vạn Hạnh & vua Lý Công Uẩn; Thiền sư Minh Không & vua Lý Nhân Tông; Phật hoàng Trần Nhân Tông & Trần Hưng Đạo; Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm & nhà thơ Nguyễn Du; Hồ Chí Minh & Võ Nguyên Giáp; Nguyễn Đức Cần & CIHC/IHP/UIA. Ngoài VMPT cho một đất nước hiện đại, dân tộc ta có cơ hội – rất lớn, hơn cả phương Tây – tiếp cận minh triết TheB để giải quyết vấn đề vô minh-tầm vũ trụ. Hôm nay, Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ nhất “Nghiên cứu và ứng dụng khả năng đặc biệt của con người” còn là minh chứng lịch sử về khả năng nhận thức minh triết sớm của người Việt Nam.
VXT
Email: tongvoxuan@yahoo.com.vn; mobile: 0918058986.
 Tài liệu tham khảo
1. Viện Nghiên cứu và Ứng dụng tiềm năng con người, Kỷ yếu hội thảo khoa học IHP ngày 29/01/2015;
2. Võ Xuân Tòng, “Nền văn minh chợt tắt”, NXB Hội Nhà văn, 3/2016;
3. Võ Xuân Tòng, “Báo cáo khoa học 25/12/2015: Những sai lầm thiên niên kỷ của nhân loại – The millennium mistakes of humanity”;
4. Video clip: “Họp báo: Lý giải UFO xuất hiện ở Việt Nam” trên youtube.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét