Thứ Tư, 4 tháng 10, 2017

Những bước đi đầu tiên của Khoa học ngoại cảm nước ta

Bài đăng trong kỷ yếu hội thảo Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ nhất về "Nghiên cứu và ứng dụng khả năng đặc biệt của con người " do Viện NC&ƯDTNCN đăng cai tổ chức cunngf 10 đơn vị nghiên cứu cùng tham gia.

NHỮNG BƯỚC ĐI ĐẦU TIÊN
CỦA KHOA HỌC NGOẠI CẢM Ở NƯỚC TA

Nguyễn Phúc Giác Hải  

Vào năm 1974, khi chúng tôi vừa kết thúc đợt nghiên cứu thực nghiệm về sinh học thì ở Hà Nội xuất hiện một người có khả năng chữa bệnh đặc biệt, một cụ già ở làng Đại Yên. Cụ có thể chữa bệnh cho người khác không cần dùng thuốc. Người bệnh có thể trực tiếp gặp cụ, trình bày bệnh tật của mình. Sau đó, nếu cụ nhận lời chữa bệnh, bệnh có thể khỏi mà không cần thuốc. Khi người ốm ở nhà, hoặc nằm trong bệnh viện, người nhà lên xin chữa giúp, nếu cụ nhận lời, bệnh nhân được chữa cũng có thể khỏi. Đó là cụ Nguyễn Đức Cần. Cụ sống trong một căn nhà rộng, có vườn cây, nhiều hoa quả, chữa bệnh cho người khác mà không lấy tiền. Tuy nhiên, lối chữa bệnh có tính chất kì lạ, gần như thần bí ấy khiến nhiều người không thể hiểu được, và đã có dư luận coi cụ là phù thủy.
Ở các nước, danh từ này chỉ một loại người có những khả năng đặc biệt: tìm nguồn nước chỉ với một cành liễu cầm tay, chữa bệnh không dùng thuốc hoặc kèm những câu thần chú, đi trên lửa với bàn chân trần, tiếp xúc với những lực lượng vô hình...
Nếu quả thật có những phù thuỷ như vậy thì phù thuỷ cũng là một hiện tượng khoa học cần nghiên cứu. Nhà nữ ngoại cảm Liên Xô (cũ) - Đjouna Đavitatxvili được phong danh hiệu tiến sỹ y khoa, vì có khả năng chữa bệnh chỉ với đôi bàn tay...
Khi vấn đề được chính thức đặt ra, chúng tôi không chỉ có một đối tượng nghiên cứu là nhà chữa bệnh ở Đại Yên, mà còn có một số nhân vật ngoại cảm khác, trong đó có những người là cán bộ khoa học.
Tuy nhiên, hiện tượng Đại Yên vẫn là hiện tượng đặc biệt nhất mà chúng tôi đã gặp cho tới nay. Cùng lúc ấy, báo chí Liên Xô giới thiệu nhà ngoại cảm Tôpich Đađasep, người có thể nhận biết ý nghĩ và điều khiển hành động của người khác, việc nhà phi công vũ trụ Mỹ E Mitchell tiến hành các thí nghiệm truyền ý nghĩ từ con tàu Apollo 14 về trái đất... đã đưa chúng tôi đến giả thuyết về sự tồn tại của một năng lực đặc biệt để giải thích các hiện tượng ngoại cảm...
Được phép của Uỷ ban Khoa học nhà nước, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu tỉ mỉ việc chữa bệnh ở Đại Yên.
Tôi lên cụ vào ngày mùng 6 Tết năm Giáp Dần, 1974. Tôi còn nhớ rõ, buổi sáng hôm ấy cụ cùng một số bệnh nhân vừa đi thăm đền Và (Sơn Tây) về. Trong nhà, rất đông  người bệnh đang ngồi chờ cụ chữa bệnh cho họ.
Khi đến, tôi coi như một người bệnh và quan sát cụ tiếp khách, chữa bệnh. Bấy giờ có một người phụ nữ đến xin cụ chữa bệnh, người này hình như có một tình trạng thần kinh thế nào đó. Cụ có khuyên giải một số điều. Sau đó, bất chợt cụ thấy tôi ngồi mãi mà không nói câu gì, không xin chữa bệnh như mọi người. Cụ có quay sang tôi, cụ nói:
- Thưa ông, ông cần gì đấy ạ?
Tôi trả lời:
- Thưa cụ, tôi không đến để xin chữa bệnh. Tôi là một cán bộ nghiên cứu của Viện Khoa học Việt Nam. Tôi có nghe người ta nói về cách chữa bệnh đặc biệt của cụ, nay muốn lên gặp cụ để tìm hiểu về vấn đề này. Nếu đây là một sự thực, chúng tôi sẽ tìm cách giới thiệu dưới ánh sáng của khoa học.
Nghe vậy cụ tiếp tôi với một trạng thái khác. Cụ trả lời:
- Vâng thưa ông, tôi chữa bệnh bằng cái đầu của tôi, nhưng người ta cứ bảo tôi là phù thuỷ.
Ấn tượng đầu tiên của tôi khi gặp cụ, thứ nhất là lời ông cụ nói, cụ chữa bệnh bằng cái đầu. Đó là điều tôi chú ý và rất lôgich. Tôi chờ đợi câu trả lời như vậy.
Thứ hai, cụ là một người phải có cái gì đặc biệt. Tôi nhận thấy là cụ có đôi mắt rất sáng, nó loáng một cái, cái nhìn ấy không thể giống như một người bình thường được. Một cái nhìn có ánh quang. Khi lên gặp cụ, tôi chưa có những điều kiện thu thập các tài liệu như về sau này. Tôi là một người nghiên cứu về sinh vật học, tôi có viết một cuốn sách về những điều kỳ lạ trong thế giới sinh vật. Khi viết cuốn sách đó tôi phải thu thập các hiện tượng lạ trong thế giới sinh vật, và việc chữa bệnh của cụ là một hiện tượng lạ trong thế giới sinh vật và con ngưòi. Như vậy nó nằm trong diện quan tâm của tôi.
Tôi thấy cụ chữa bệnh không phải hỏi bệnh nhân, nên tôi liên hệ là cụ nhận biết bằng thần giao cách cảm. Cụ có thể chữa bệnh cho người khác từ xa, thì tôi liên hệ đến tài liệu của Paul Jagot, thôi miên từ xa - có thể tạm gán cho là như thế. Lúc đó Uỷ ban Khoa học kỹ thuật nhà nước có xuất bản tập Những dự báo khoa học năm 2000, trong đó có mục dự báo năm 2000 con người có thể nghiên cứu và ứng dụng các hiện tượng truyền ý nghĩ, tiếng Anh gọi là Extrasensory Phenomenag. Những cái đó đặt nền móng cho việc tìm hiểu việc chữa bệnh của cụ, nên tôi thấy nó không xa lạ mà có cơ sở khoa học.
Tôi phải làm mấy công việc sau đây:
Thứ nhất, tôi tìm trong những thư cảm ơn của bệnh nhân đối với cụ, những ca đặc biệt, tôi tìm đến những người đó. Những người bệnh này có cho tôi xem một số hồ sơ bệnh án, họ đã đi chữa ở một số bệnh viện, kết luận là không thể chữa khỏi hoặc là khó chữa, nay đến cụ thì được chữa khỏi. Đấy là một trong những bằng chứng, có căn cứ để nói là cụ có thể chữa bệnh. Tiếp đó, chúng tôi chuẩn bị những bệnh nhân mới, với hồ sơ đã chữa ở các bệnh viện không khỏi. Sau khi cụ Cần chữa khỏi, lại đưa đến bệnh viện xác minh lại. Kết quả cho thấy việc chữa bệnh “không dùng thuốc và từ xa’’ là có thật. Các sự kiện phù hợp với giả thiết về một năng lượng sinh học đã được phát ra từ người chữa được truyền sang người bệnh lại được củng cố thêm bởi các thông tin về Hội nghị năng lượng tâm thần (Psychotronik) họp ở Praha, Tiệp Khắc (cũ), có khoảng 250 nhà khoa học của hơn 20 nước tham dự, trong đó có Liên Xô.
Thứ hai, tôi quan sát trực tiếp việc chữa bệnh của cụ, với phương pháp chụp ảnh trước và sau khi chữa đối với một số ca bệnh, thí dụ như một ca bệnh vẩy nến, là bệnh mà toàn thân người bệnh bị mọc mụn khô thành vẩy.
Vậy thì cụ chữa như thế nào? Cụ lấy ra một miếng giấy, bảo người bệnh đốt miếng giấy đó trên một chậu nước, rồi lấy nước ấy rửa chỗ đau của cơ thể. Rõ ràng, khi thấy hiện tượng đó thì người nào cũng thấy đó là thần bí mà người ta có thể gọi là mê tín dị đoan. Thế nhưng, khi tôi chụp và so sánh ảnh người bệnh lúc chưa được chữa thì đầy những vẩy nến trên cơ thể, và sau khi rửa cái nước đó thì chỉ sau hai tuần lễ nó đã bớt đi rất nhiều, trước đó người bệnh đã đi chữa ở nhiều nơi nhưng không khỏi. Như vậy, rõ ràng chúng ta phải kết luận, trong trường hợp này, việc chữa bệnh của cụ là có cơ sở.
Thứ ba, tôi phải tìm hiểu bản chất việc chữa bệnh của cụ. Cụ chữa bệnh bằng việc nhận lời hoặc cho người bệnh một miếng giấy. Cụ nhận lời thì tôi có thể cắt nghĩa đấy là cụ có thể chữa bệnh từ xa, điều khiển từ xa. Thế nhưng miếng giấy là cái gì? Rất may là lúc bấy giờ tôi có sưu tầm rất nhiều tài liệu của thế giới. Người ta có nói là những nhà chữa bệnh bằng trường sinh học có thể tích năng lượng vào các vật dụng khác, ví dụ: tích năng lượng vào một cốc nước, một miếng giấy, một quả cam... rồi đưa cho bệnh nhân ăn, người bệnh thông qua đó được tiếp năng lượng thì có thể khỏi bệnh. Đó là một nguyên tắc mà những nhà chữa bệnh trên thế giới họ đã tự viết ra như vậy.
Sau đó đến giai đoạn thực nghiệm. Tôi vốn không uống được rượu, hôm ấy khi cụ mời tôi uống rượu thì mọi người ở đó bảo tôi là cứ uống đi rồi cụ sẽ giải cho. Tôi chấp nhận để thử xem thế nào. Lúc đó một người rót cho một chén rượu, tôi uống vào thì thấy ngây ngất, mặt nóng bừng. Cụ nói với một người ngồi gần đấy đưa cho cụ cái khay trong đó có những miếng giấy. Cụ cầm miếng giấy tích năng lượng vào đó rồi cụ bảo đốt đi. Một người cầm miếng giấy đó đốt trên cốc nước rồi tôi uống cốc nước đó.
Chúng ta biết rằng khi uống một cốc nước đá, thì cảm giác lạnh có từ cổ trở xuống, hoặc uống nước nóng thì cảm giác nóng có từ cổ trở xuống. Nhưng ở đây lại khác, trong trạng thái mờ mờ do uống rượu và say, khi tôi uống cốc nước đó thì thấy như có một cái mành mành chạy lách tách thả từ trên đỉnh đầu xuống, có một cái gì đó sáng ra, đây là một trạng thái rất lạ, và tất nhiên tôi có tỉnh hơn nhưng không thể hết hẳn say như khi bình thường. Sau đó, tôi có rủ anh Hoàng Phương là một phó tiến sĩ toán lý, anh có lên trên cụ và tôi có mời anh uống rượu. Nhưng tôi không nói cảm giác của mình cho anh biết. Thực nghiệm thì phải làm như vậy. Sau khi anh uống, tôi có đề nghị cụ cho anh ấy một liều thuốc giải. Khi anh uống xong chén nước, tôi hỏi anh thấy thế nào, anh có tả lại cảm giác như tôi đã cảm nhận. Lúc đó tôi mới nói với anh, đó cũng chính là cảm giác của tôi khi được cụ cho giải rượu.
Ngày 26 tháng 4 năm 1974, trong buổi báo cáo tại Bộ Công an, tôi giới thiệu tóm tắt việc nghiên cứu hiện tượng ngoại cảm trên thế giới, và các nhà ngoại cảm người Do Thái, Uri Geller người có khả năng nhìn cong cái thìa bằng kim loại; nhà ngoại cảm người Nga , Tofik Dađaxép có khả năng thần giao cách cảm...
Sau đó tôi giới thiệu ở Việt Nam cũng có một người đặc biệt, đó là Nhà chữa bệnh Nguyễn Đức Cần ở Đại Yên, Hà Nội. Tôi nhấn mạnh về khả năng thần giao cách cảm  và điều khiển từ xa của cụ, và nói rằng: Những khả năng này rất quan trọng cho quốc phòng và an ninh quốc gia .
 Trong buổi họp Bộ trưởng Bộ công an Trần Quốc Hoàn đã phát biểu: “Việc chữa bệnh của cụ là có cơ sở khoa học, trước đây tôi cũng có khả năng này, nhưng do tham gia cách mạng, nếu không tôi cũng có khả năng chữa một số bệnh như cụ Cần’’. Và  tôi nói rằng: “ Tôi rất sung sướng lần đầu tiên được trình bày vấn đề này tại một địa điểm rất quan trọng là trụ sở Bộ Công An. Tôi coi rằng, ngày hôm nay là ngày ra đời của khoa học ngoại cảm ở nước ta’’
Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn nói:“Như thế thì vinh dự cho Bộ Công an quá”
          Vào ngày 30 tháng 4 năm 1974, các cơ quan của Nhà nước có tổ chức quay phim việc cụ chữa bệnh tại Đại Yên, Hà Nội. Sự việc đó là do chính chúng tôi đề xuất với cụ và với cơ quan Nhà nước để ghi nhận một sự kiện khoa học. Chúng tôi đề nghị là phải dùng biện pháp quay phim, vì chỉ quay mới so sánh được kết quả lúc trước và sau khi chữa bệnh. Chúng tôi có đề nghị với xưởng phim Tư liệu khoa học. Thứ hai tôi có nhờ đến xưởng phim Quân đội, sau đó lại nhờ thêm xưởng phim của Vô tuyến truyền hình. Tôi không biết đoàn nào có thể đến được vì khi nhận lời các anh ấy không nói một cách chắc chắn.
Buổi hôm đó, chúng tôi có mời ông Lê Khắc, Phó chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước, một số đại diện ngành y tế, các cơ quan khoa học, Bộ Công an, một số tướng lĩnh trong quân đội như thiếu tướng Kinh Chi, ông Đặng Quốc Bảo... Buổi quay phim hôm đó tổ chức ngay tại nhà cụ Nguyễn Đức Cần, cả ba đoàn quay phim đều đến, có công an Hà Nội làm nhiệm vụ bảo vệ.
Ông cụ chữa một ca bệnh tóc kết. Cụ điều khiển, một người phụ nữ cầm lược chải tóc người bệnh cho nó xuôi ra, chải một lúc lại thấy bị tắc, bèn nói: “Thưa cụ, xin cụ cho mở thêm ra, không thể chải được”. Cụ giơ tay điều khiển thì lại chải được tóc, sau một lúc thì tóc mượt ra. 15 ngày sau, chúng tôi có tìm lại người bệnh ấy thì tóc vẫn mượt, không quăn trở lại. Điều quan trọng với người bệnh là khi tóc bị kết thì bị đau đầu, sau khi cụ chữa thì người bệnh không còn bị đau đầu nữa. Bệnh nhân thứ hai bị bại liệt, chân đã bị teo. Cụ nói ngay: “Cái chân này không thể chữa khỏi ngay được đâu, nhưng tôi sẽ làm cho nó cử động”. Cụ điều khiển thì cái chân cử động được thật, vì trước đó một bác sĩ bệnh viện Việt Xô (bệnh viện Hữu nghị) đã lấy kim châm nhưng chân đó không thể cử động. Chúng tôi có mời hai bác sĩ: một bác sĩ ở bệnh viện Việt Xô giám định ca bại liệt, bác sĩ bệnh viện Bạch Mai giám định ca bệnh tóc kết. Các bác sĩ có phát biểu và đã ghi âm, kết luận là việc chữa bệnh của cụ buổi đầu có kết quả.
Anh Nguyễn Hoàng Phương, một người cùng nghiên cứu với chúng tôi, ngay sau buổi quay phim đã đọc một bài phát biểu, trong đó anh nói: “Sự kiện cụ Nguyễn Đức Cần có một khả năng kỳ diệu và những phương pháp chữa bệnh hoàn toàn mới và rất thần tình, mặc dầu chưa giải thích được, là một tồn tại khách quan không thể phủ nhận được”.
Cụ có nói là bệnh của con người có hai vấn đề: “thân bệnh” và “nghiệp bệnh”, “thân bệnh” thì có thể chữa được, còn “nghiệp bệnh” thì khó, nghĩa là có người có thể khỏi bệnh, có người không khỏi, và có cả người cụ không nhận chữa.
Cụ bảo, chữa bệnh phải có “Đức”. Tên cụ là Nguyễn Đức Cần, ở đấy có chữ “Đức”. Ở đây, khái niệm đạo đức của cụ là con người sống không làm điều ác, không phạm các tội lỗi với xã hội, không bất hiếu với cha mẹ, đó là đạo đức thông thường và cụ khuyên người ta làm việc thiện. Rất tiếc là những điều kiện sau đó không thuận lợi cho việc nghiên cứu khoa học ngoại cảm ở nước ta. Mãi đến năm 1990, khi tôi trở lại công tác tại Viện Khoa học Việt Nam, vấn đề nghiên cứu ngoại cảm mới chính thức được đặt trở lại.
Đầu năm 1991, một Ban vận động thành lập Hội nghiên cứu khoa học ngoại cảm, gồm nhiều giáo sư, tiến sĩ và các nhà nghiên cứu tham gia, do giáo sư Đào Văn Tiến làm trưởng ban, đã chính thức ra đời để chuẩn bị cho một tổ chức khoa học nghiên cứu về hiện tượng này...Khoa học ngoại cảm khác với các khoa học thực nghiệm khác ở chỗ: Đối tượng nghiên cứu của nó là những con người có khả năng ngoại cảm. Việc tìm được những người thật sự có khả năng ngoại cảm, tự nguyện cống hiến khả năng của mình cho việc nghiên cứu và cho lợi ích xã hội không phải là dễ dàng.
Năm 1996, Đảng và Nhà nước ta đã cho phép thành lập một Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người thuộc Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam, và ngày 14 tháng 11 năm 2012, Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Tiềm năng con người đã ra đời theo quyết định số 760 QĐ – LHHVN, trong đó có một Bộ môn nghiên cứu năng lượng sinh học của những con người có khả năng đặc biệt như cụ, và vấn đề chữa bệnh của cụ đã được làm sáng tỏ.

Chúng ta tin tưởng rằng Anh linh của Cụ sẽ vẫn theo dõi những bước đi của chúng ta trong lĩnh vực nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng của con người, với mục đích cao cả là phụng sự Tổ Quốc.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét