Nguyên lý căn bản của Đạo Phật
Tác giả Thích Nhất Hạnh
Tác giả Thích Nhất Hạnh
Đức
Phật lúc đương thời đã nhận thấy cái vô ích của những giấc mộng siêu hình. Ngài
không muốn cho các đệ tử Ngài đắm chìm trong những suy tưởng siêu hình, những
vọng tưởng sai lầm của tri thức và tình cảm chủ quan. Vấn đề trọng đại mà Ngài
đặt ra cho đệ tử là phải tiêu diệt ngay phần mê mờ thiên lệch nằm trong tri
thức và tình cảm của mỗi người, nghĩa là phải tu hành để tự giải thoát khỏi vô
minh triền phược.
Phần
tinh-ba nhất của con người là tư-tưởng. Con người có thể tự-hào rằng mình hơn
vạn-vật ở chỗ biết suy tưởng. "Người là một cây sậy biết suy tưởng",
câu nói ấy vừa thú nhận sự yếu đuối của con người trước vũ trụ mà cũng lại vừa
đề cao khả năng bất-diệt của con người trước vũ-trụ.
Đứng
trước vạn tượng bao la, và nhìn lại bản thân mình, con người khát khao được
hiểu biết. Hiểu biết để được thỏa mãn, và hiểu biết để sống cho đáng sống.
Chính khuynh hướng muốn tìm hiểu ấy đã làm nẩy sinh ra triết học.
Nhân
loại ngày nay đã hiểu biết tới đâu? Triết học đã vạch ra được con đường tiến
của con người chưa? Đã giải quyết được những nỗi thắc mắc lớn lao của con người
về cuộc sống, về vũ trụ và về bản thân của con người chưa?
Đó là
những câu hỏi mà chính những con người có khả năng suy tưởng nhất cũng phải
ngậm ngùi mỗi khi nghĩ đến. Người ta băn khoăn tự hỏi tri thức con người có đủ
khả năng để đạt đến sự thực hay không. Nếu không thì con người còn suy tưởng
làm chi. Thà rằng cứ ù ù cạc cạc mà sống trong cuộc đời, bởi vì sự suy tưởng vô
vọng ở đây chỉ làm cho con người thêm đau khổ.
Nhưng
con người không thể không suy tưởng. Sống là suy tưởng, và vì thế, dù triết học
là một môn học không hư, viển vông, vô ích thì triết học cũng còn phải tồn tại
mãi mãi; bởi vì khi con người còn suy tưởng đến những vấn đề căn bản của kiếp
người thì triết học vẫn còn. Ba nghìn năm lịch sử của triết học hình như đã nói
với ta như thế.
Vào
buổi rạng đông của triết học, con người rất tin tưởng ở khả năng tri thức của
mình. Nhưng cùng với những triết gia hoài nghi, lòng tin ấy mất dần, mất dần…
Càng đi sâu vào sự suy tưởng, con người càng cảm thấy rõ ràng cái bất lực của
tri thức nhân loại! Con người lại càng bi quan hơn nữa khi thấy bên cạnh cái
tri thức yếu đuối và hèn kém ấy, còn có một tâm hồn nặng trĩu những ước vọng
đen tối, xấu xa. Chính những mờ tối, cố chấp và chủ quan này đã dự phần vào
việc che lấp phần khách quan đáng quý mà tri thức cần phải đầy đủ.
Với
những vốn liếng nghèo nàn như vậy mà con người đã dám hy vọng có thể tìm ra
chân lý. Đã thế lại còn muốn bay xa, rất xa trong cõi siêu hình. Càng xa càng
hay. Cần gì đến thực nghiệm! Thái độ "duy lý" cũng đã đủ để đảm bảo
rồi! Vướng vào thực nghiệm làm sao mà bay xa đuợc! Và như thế, con người tha hồ
tự do kiến tạo những giấc mộng siêu hình.
Nói
"những giấc mộng siêu hình" rất đúng, vì chính những kiến tạo duy lý
của con người về siêu hình đều do những động lực rất chủ quan của con người sắp
đặt: phần lý trí nhiều lầm lạc và thành kiến, phần tình cảm nhiều mờ ám, thiên
lệch, cho nên giấc mộng của tôi không phải là giấc mộng của ngài, và loài người
có đến muôn ngàn giấc mộng… Đã có ai công nhận của ai là đúng đâu.
Đức
Phật lúc đương thời đã nhận thấy cái vô ích của những giấc mộng siêu hình. Ngài
không muốn cho các đệ tử Ngài đắm chìm trong những suy tưởng siêu hình, những
vọng tưởng sai lầm của tri thức và tình cảm chủ quan. Vấn đề trọng đại mà Ngài
đặt ra cho đệ tử là phải tiêu diệt ngay phần mê mờ thiên lệch nằm trong tri
thức và tình cảm của mỗi người, nghĩa là phải tu hành để tự giải thoát khỏi vô
minh triền phược. Diệt trừ được phần mê vọng là đạt đến tất cả. Chưa diệt trừ
được phần mê vọng thì dù có suy tưởng ngàn kiếp đến các vấn đề siêu hình cũng
vẫn không đi đến một kết quả tốt đẹp nào. Phương pháp của đức Phật là phương
pháp thực hiện, không phải là phương pháp suy tưởng. Đạo Phật là một đạo sống
chứ không phải là môn học siêu hình.
Một
hôm đức Phật cầm trong tay một nắm lá "sinsapa" và nói với các vị đệ
tử xuất gia: "Các con nghĩ sao? Lá trong tay ta nhiều hơn hay là lá trong
rừng này nhiều hơn?" – "Bạch đức Thế Tôn, những ngọn lá Ngài cầm
trong tay thì ít mà lá trong rừng thì quá nhiều" – "Cũng như thế đó,
này các con, những cái ta biết thì rất nhiều, nhưng những cái ta đem ra dạy các
con thì rất ít. Tại sao ta không đem tất cả ra để dạy các con? Bởi vì những cái
ấy không có lợi gì cho các con cả. Chúng không giúp gì cho sự giải-thoát cho
nên ta không đem ra dạy. Ta dạy những gì? Ta dạy về sự khổ, nguyên nhân cái
khổ, sự diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ. Những thứ ấy có ích lợi, vì
chúng có thể đưa các con đến chỗ giải thoát" (Samyutta).
Ta
thấy rõ ràng đạo Phật là một con đường và là một con đường duy nhất đưa đến chỗ
diệt khổ. Đạo Phật chỉ là một lối sống, một lối thực hành, không phải là một
thuyết lý vô ích, một "hý luận". Bởi vì đạo Phật nhận thấy cái cần
thiết của sự diệt trừ mê vọng. Đức Phật nói: " Này các thầy tỳ kheo, đừng
nghĩ vớ vẩn rằng thế giới này là hữu hạn hay vô hạn, hữu cùng hay vô cùng. Dù
cho thế giới này là hữu hạn hay vô hạn, dù cho nó hữu cùng hay vô cùng thì điều
mà chúng ta phải nhận là hiện hữu ở đời này, là những khổ đau: sinh, lão, bệnh,
tử" (Anguttara).
Vậy
đạo Phật chủ trương dẹp bỏ tất cả các lý luận vọng tưởng, cấm trí óc phiêu lưu
vào trong những thế giới suy tưởng siêu hình mà đạo Phật quyết chắc rằng chỉ là
những vọng tưởng hư ngụy và vô ích. Đạo Phật kéo con người trở về với thực
nghiệm. Thực nghiệm này là một thực nghiệm bao la rộng rãi. Đó là sự nhận thức
cái "khổ" ở đời.
"Khổ"
là một chân lý thực-nghiệm. Không những chỉ sinh lão bệnh tử mới là khổ. Còn
bao nhiêu cái khổ khác, lặt vặt hơn, nhưng phiền toái hơn, và dày vò con người
thường xuyên hơn. "Nhận thức cái khổ" không phải chỉ là xác nhận cảm
giác khổ thọ là thực hữu. Nhận thức cái khổ – dukkha – nghĩa là phải nhận chân
một cách rõ rệt và sâu xa tính cách vô thường vô ngã chống đối nhau của vạn sự,
vạn vật. Rộng rãi hơn, nhận thức cái khổ tức là biết mình sống đau khổ trong
một thế giới khổ đau với một nghiệp báo không tốt đẹp. Tất cả những giáo lý
Phật dạy đều hướng về chủ đích làm cho con người có ý thức về cái khổ, và nhận
chân được cái khổ theo định nghĩa rộng rãi như trên. Con người trước tiên phải
thực nghiệm một cách sâu xa và rộng rãi cái "khổ" ấy, cái sự thực Vô
Thường, Vô Ngã, Bất Tịnh và Mâu Thuẫn ấy. Có thực nghiệm như thế rồi, con người
mới đặt vấn đề cần thiết: tìm nguyên do của sự khổ và phương pháp diệt khổ.
Kẻ nào
chỉ có ý thức nông cạn về cái khổ thì không thể tìm đến nguyên nhân của cái khổ
được. Khi con người đã chứng nghiệm một cách đầy đủ và sâu xa cái khổ Vô
Thường, Vô Ngã, Bất Tịnh và Mâu Thuẫn, con người sẽ tìm đến nguyên nhân của cái
khổ một cách dễ dàng. Đã có chân lý thứ nhất là Khổ đế, thì có chân lý thứ hai
là Tập đế, nguyên nhân sự khổ. Đức Phật bảo rằng nguyên nhân sự khổ là mê vọng,
ác nghiệp, là ái nhiễm, và con người cũng nhận thấy như thế. Nguyên nhân của sự
khổ cũng như sự khổ, không phải là một kết quả do những suy tưởng siêu hình đem
lại mà là một chân lý có thể thực nghiệm. Ai cũng có thể thực nghiệm chân lý ấy
cả. Kinh nghiệm sống dạy cho con người chân lý ấy. Đức Phật muốn cho con người
có ý thức rõ rệt về chân lý ấy. Giáo điển đạo Phật đã thuyết minh rõ ràng về
chân lý ấy.
Vậy
Khổ-đế và Tập-đế là những điều thực nghiệm rộng rãi và đầy đủ dùng làm nền tảng
cho phương pháp đạo Phật. Đứng trước những chân lý thực nghiệm ấy, con người cố
nhiên phải nhận thấy con đường của mình: giải thoát diệt khổ.
Nếu
nguyên nhân của đau khổ là dục vọng thì diệt-trừ dục-vọng tức là diệt trừ đau
khổ. Đó là một điều quá giản lược mà không ai không thấy. Cuộc đời là khổ. Và
nguyên nhân của cái khổ ấy là dục vọng. Tiêu diệt được dục vọng tức là tiêu
diệt được cuộc đời đau khổ. Vậy, theo đạo Phật, cuộc đời khổ đau, con người
phải tiêu diệt cuộc đời khổ đau ấy để tiến đến Niết-bàn.
Đừng
vội la lên rằng: như thế thì đạo Phật là quá ư tiêu cực, là chủ trương đừng
sống, là chủ trương xa lánh cuộc đời, là chủ trương biến tất cả thành hư vô.
Dục vọng là nguyên nhân của sự khổ đau, là gốc của sinh, lão, bệnh, tử và ngàn
muôn khổ thọ khác. Nhưng con người không phải chỉ có dục vọng mà thôi. Con
người còn có những gì thanh thoát cao siêu hơn dục vọng, như lòng từ bi, như
trí tuệ… Vậy tiêu diệt dục vọng chỉ là tiêu diệt cuộc đời khổ đau; nói một cách
khác hơn, là tiêu diệt phần khổ đau của cuộc đời. Phần dục vọng bị tiêu diệt,
nhưng còn phần tinh ba cao khiết sẽ ra sao? Phần tinh ba cao khiết này, khi dục
vọng tiêu diệt, cố nhiên sẽ được thực hiện toàn vẹn. Không lẽ sự thực hiện toàn
vẹn của phần này lại đưa đến một kết quả hư vô?
Vậy
khi dục vọng tiêu diệt, phần xấu xa của cuộc đời (vô thường – khổ đau – vô ngã
– bất tịnh) bị tiêu diệt, nhưng phần tốt đẹp của cuộc đời (thường – lạc – ngã –
tịnh) phải được thực hiện toàn vẹn, vì ở con người, phần tinh ba cao khiết đã
được thực hiện toàn vẹn. Vậy Niết bàn không phải là hư vô, mà là sự thực hiện
toàn vẹn của những gì cao khiết nhất, thanh tịnh và nhiệm mầu nhất.
Sống
trong cuộc đời vô thường, vô ngã, bất tịnh, khổ đau với bao nhiêu thăng trầm
sinh tử, mà không thấy có vô thường, vô ngã, bất tịnh, khổ đau với bao nhiêu
thăng trầm sinh tử ấy: đó là Niết-bàn.
Đạt
đến chỗ diệt trừ dục vọng, con người được giải thoát, hoàn toàn tự do, không
còn bị nô lệ cho một thứ gì nữa. Vấn đề Giải Thoát chỉ là vấn đề thay đổi nhận
thức. Dục vọng tiêu diệt, bi trí thực hiện, tức thì nhận thức biến đổi. Vô
thường, khổ đau, vô ngã, bất tịnh, trước nhận thức giải thoát, biến thành
Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Sinh tử triền phược là ở đấy. Niết bàn giải thoát cũng
ở đấy. Và Niết bàn không rời sinh tử, "Niết bàn, sinh tử thị không hoa".
Có mặt
xấu của cuộc đời là sinh tử, thì cũng có mặt đẹp của cuộc đời là Niết bàn. Đó
là chân lý thứ ba.
Nhưng để diệt trừ dục vọng, đạt tới Niết bàn, con người cần phải có một đường lối, một phương pháp. Đạo Phật là đường lối ấy, là phương pháp ấy.
Nhưng để diệt trừ dục vọng, đạt tới Niết bàn, con người cần phải có một đường lối, một phương pháp. Đạo Phật là đường lối ấy, là phương pháp ấy.
Đường
lối diệt dục cần phải rất rõ ràng, và phải khởi đầu từ bờ Mê, nghĩa là phải để
cho con người khổ đau có thể đạt được những bước đầu tiên, khó khăn và ngượng
ngập. Pháp môn tuy nhiều vô lượng, song được bao hàm trong mấy điều giản lược
thiết yếu: Tam học và Bát chính đạo.
Tam-học:
giới, định, tuệ. Chủ động của những nghiệp quả xấu xa, là các hành vi, ngôn ngữ
và ý nghĩ mê vọng. Các "vọng nghiệp" này lại còn giúp sức cho dục
vọng phát triển. Vậy công việc trước tiên là phải đình chỉ chúng lại.
"Giới" chính là sự đình chỉ ấy. Không làm, không nói và không nghĩ
những nghiệp nhân mê vọng tức là không chịu tuân theo sự sai sử của dục vọng.
Đó là công tác cách mạng đầu tiên. Có thành công trong bước đầu kháng cự và bất
phục tùng này, con người mới hy vọng tiến đến giai đoạn tiêu diệt dục vọng.
Trì
giới tức là không chịu rót thêm dầu trong ngọn đèn dục vọng. Tuy thế, ngọn đèn
vẫn cháy mạnh. Cho nên, con người phải dùng thêm những biện pháp tích cực để
làm yếu dần sức cháy kia và cuối cùng, tiêu diệt được ngọn lửa đèn.
Do công
năng trì giới, ý chí càng lúc càng mạnh. Hành giả sẽ thực hành phép tập trung
tư tưởng, dùng lực lượng thiền định để cắt xén dần những rễ dây chằng chịt của
dục vọng và trải qua nhiều công phu, có thể lay chuyển và xô ngã được cội rễ
của nó.
Dục
vọng càng bị tiêu diệt, trí tuệ càng thêm tăng trưởng. Trí tuệ càng tăng trưởng
thì sức phá trừ dục vọng càng thêm mãnh liệt. Cứ thế hành giả tiến dần đến chỗ
tiêu diệt hoàn toàn những mầm mống vi tế nhất của cội nguồn đau khổ. "Nhân
Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ" là câu nói tóm tắt của tam-học vậy.
Nhưng
công phu tam học cần được thành lập trên những kiến thức chân chính - chính
kiến (vue juste). Nghĩa là cần thấu hiểu và chứng nghiệm triệt để bốn sự thực
căn bản (gọi là Tứ Đế) để có thể tránh khỏi những nhận thức sai lầm, những tà
kiến trái chân lý. Phải theo lời Phật dạy để biết xử dụng pháp tập trung tư
tưởng và pháp thiền quán đúng theo chính pháp, chính định và chính tư duy. Chỉ
tưởng niệm những điều đúng chánh pháp, chánh niệm. Phải siêng năng theo con
đường chánh – chánh tinh tấn. Phải có một phương tiện sinh tồn chân chánh –
chánh mạng. Phải hành động và nói năng đúng theo chánh pháp – chánh nghiệp và
chánh ngữ. Đó là bát chính đạo.
Con
đường tuy gay go nhưng là con đường duy nhất. Tất cả các hệ thống giáo lý phong
phú của đạo Phật chỉ có một mục đích duy nhất là trình bày phương pháp và đường
lối giải thoát, ngoài ra không hề có nhằm mục đích giải quyết những thắc mắc
siêu hình. Người nào nhìn đạo Phật như một khoa học siêu hình chính người đó đã
không hiểu đạo Phật.
Nguồn:
Làng Mai
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét