NHỮNG TRUYỀN NHÂN THẬP THỦ ĐẠO
Ngoc Hà
Người dân ở TP Hồ Chí Minh
và các tỉnh Nam Bộ từng truyền tụng về Lương y Huỳnh Thị Lịch là “Thánh y” bấm
huyệt chữa bệnh. Bà có nhiều truyền nhân, nhưng khối kiến thức độc đáo về bấm
huyệt Thập thủ đạo tới nay vẫn chưa được nghiên cứu, áp dụng rộng rãi. Thân
thế, sự nghiệp của bà cũng trở nên bí ẩn bởi hầu như học trò chỉ nghiên cứu, ít
thực hành và quảng bá nên “bí kíp” Thập thủ đạo đã gần như biến mất.
1. Huyền tích về một số
phận
Gần đây, thân thế và sự nghiệp bí ẩn của Lương y huyền
thoại Huỳnh Thị Lịch được đưa ra công luận với môn bấm huyệt độc đáo Thập thủ đạo.
Bà Lịch là truyền nhân duy nhất của một vị đạo sĩ bí ẩn, được dân tôn xưng như
thánh ở vùng biên giới Ấn Độ.
Theo
Lương y Lê Minh (từng là cán bộ Bộ Công An), bà Huỳnh Thị Lịch tên thật là Trần
Thị Kim Thanh, sinh năm 1916 ở làng Cải Mực (thuộc Tổng Bình, Ý Yên, Nam Định
xưa). Lương y Huỳnh Thị Lịch nổi tiếng hơn 40 năm ở
Sài Gòn, Nam Bộ từ năm 1960 tới 2007. Bà không còn người thân nên bí kíp Thập
thủ đạo và cuộc đời bà đã dần bị lãng quên (dù bà có tới nửa triệu học trò và
hàng ngàn bệnh nhân).
Thông tin về cuộc đời bà Lịch không nhiều: Bà mồ côi mẹ
từ nhỏ, cha lấy vợ lẽ. Quê quán của bà cũng chỉ được bà nhắc tới hồi còn sống
là ở vùng Ý Yên (Nam Định).
Gặp mấy năm đói kém mất mùa, bà Lịch - khi ấy là cô bé
Thanh mới 11 tuổi đã theo người làng cuốc bộ, bỏ xứ vào Nam kiếm miếng ăn. Họ
ban ngày vừa đi vừa xin ăn, ban đêm ghé đình chùa, bờ bụi… ngủ. Gần 2 năm trời
họ mới vào đến Bình Dương xin làm công nhân trong đồn điền cao su. Nhưng vì đói
khổ đường dài lâu ngày, chẳng đồn điền cao su nào nhận cô bé đen nhẻm, còi cọc
mới 13 tuổi vào làm cả. Bé Thanh vạ vật ra chợ xin ăn, may được võ sư họ Huỳnh ở
Bình Định vào lập nghiệp ở Bình Dương thương xót đón về cho làm giúp việc trong
lò võ.
Vị võ sư có một võ đường lớn, thấy cô bé giúp việc ngoan ngoãn, chăm chỉ, lại có năng khiếu học võ nên đã nhận làm con nuôi, cho học võ và đổi
tên cho con nuôi thành Huỳnh Thị Lịch.
Lớn hơn cô Lịch được một bác sĩ Pháp nhận vào làm y tá
phụ mổ tại Bệnh viện Hỏa Xa. Nhờ kiến thức võ thuật tốt nên đã cô Lịch làm ông
bác sĩ kinh ngạc vì sự thông thạo các đường kinh lạc và hiểu rõ tác dụng của
các huyệt đạo trên cơ thể người. Vì thế ông đã đưa cô Lịch về làm quản gia,
kiêm gia sư cho các con mình.
Năm 18 tuổi cô Lịch kết hôm với anh Trần Văn Hải, người
Củ Chi – là một chiến sĩ quân báo cách mạng. Năm 1948 cơ sở bại lộ, ông Hải đã
hy sinh anh dũng, bà Lịch ôm 3 đứa con nhỏ xíu trốn về Đồng Tháp Mười, tiếp tục
hoạt động cách mạng và bi kịch liên tục “tấn công” góa phụ bất hạnh này. Cô con
gái 13 tuổi đã bị bọn Tây bắt cóc đem ra cánh đồng cưỡng hiếp rồi giết chết. Nỗi
đau chưa nguôi thì giặc càn quét vào Đồng Tháp Mười. Bà đưa con theo du kích
quân trốn ra bờ sông. Vì hai con trai bé bỏng khóc nên bà sợ nhiều người sẽ mất
mạng khi giặc phát hiện, nên đành bóp mũi con cùng ngụp xuống sông. Khi giặc đi
qua kéo lên thì hai con đã tắt thở…
2. Từ
người giúp việc thành “thánh y”
Tang tóc liên tục và kinh
hoàng đã đánh gục bà Lịch thành người mất trí, lang thang khắp Sài Gòn gọi tên
các con. May mắn vị bác sĩ người Pháp tốt bụng gặp lại và nhận ra bà đã
đưa về điều trị và một thời gian sau bà Lịch trở lại bình thường. Vị bác sĩ này
đã đưa bà theo sang Pháp. Nhờ trí
thông minh, đặc biệt là tài học nhanh nhớ lâu nên bà đã tìm đủ mọi cách học lỏm
nghề từ ông chủ và bạn bè của ông.
Nhờ có vốn tiếng Pháp, lại chăm chỉ làm việc nên bà dễ
dàng kiếm được việc làm và phiêu bạt tới tận biên giới Ấn Độ, giáp Pakistan. Ở
đây bà Lịch gặp một vị đạo sĩ tu ở một ngôi chùa trong núi có kỳ tài bấm huyệt
chữa bệnh, được dân coi như thánh nhân. Chứng kiến ông chữa cho người câm tự
dưng bật ra tiếng nói, đang điếc bỗng nghe được, đang chống nạng thì bỏ nạng
đứng lên đi… bà rất muốn theo học. Nhờ am hiểu kinh lạc nên bà nhanh chóng trở
thành học trò của đạo sĩ, hàng ngày chuyên tâm học hỏi và thực hành bấm huyệt
chữa bệnh cho mọi người.
Được 12 năm học hỏi bên thầy thì vị đạo sĩ tận số, gọi
bà lại truyền cho một cuốn sách bí truyền, và dặn: “Muốn cảm thụ được hết kiến thức về môn bấm huyệt kỳ tài này để giúp đời,
con cần loại bỏ lòng tham, thù hận, trị
bệnh cứu nhân độ thế, không được lấy tiền của thiên hạ, thì mới thành công”. Sau khi vị đạo sĩ qua đời, một
năm liền bà Lịch hàng ngày ngồi bên mộ thầy, tập trung vừa học, vừa trị bệnh và
trở thành truyền nhân duy nhất của vị đạo sĩ bí ẩn.
Nhiều học trò của bà Lịch vẫn nhớ câu chuyện “học
nghề” của bà hồi trẻ. Bà hay dùng chiếc gương nhỏ phản chiếu để học lén. Khi bị
ông chủ phát hiện, bà lo lắng nhưng rất bình tĩnh trả lời những câu hỏi của ông
chủ. Không dè ông chủ từ không vui, chuyển sang ngạc nhiên, rồi cảm thương ý
chí và nghị lực của bà mà không phạt, còn truyền nghề cho bà.
Nhờ được gặp đạo sư thánh nhân, lại chí tâm thu thập
kiến thức và bằng thực tế cứu người nên bà Lịch nhanh chóng kế thừa được tinh
hoa của nhiều thế hệ và nhiều dân tộc, đúc rút thành cách chữa bấm huyệt độc
đáo mà bà gọi là Thập thủ đạo (bấm huyệt dựa vào kinh
mạch trên 10 ngón tay, chân – có nơi còn gọi là thập chỉ đạo).
Sau 12 năm phiêu bạt bà Lịch trở về nước làm nữ cứu
thương trong chiến khu Đ, rồi y tá trong bệnh viện công giáo… Ở đâu bà cũng đem những ngón tay điêu luyện và lòng nhân ái cứu
giúp người, đặc biệt là trẻ em mồ côi, người tàn tật, người nghèo khó… hoàn
toàn với cái TÂM không vì lợi lộc riêng. Nhiều bệnh nhân cảm
kích tặng tiền, hay vật chất bà đều làm từ thiện hết.
Dù sống trong căn nhà tuềnh toàng, thiếu thốn đủ thứ, nhưng bà vẫn luôn dạy học trò rằng: Chỉ những người có TÂM
trong sáng, cứu người không vụ lợi mới học được môn bấm huyệt Thập thủ đạo. Bà Lịch chữa trị rất hiệu quả các chứng bệnh thường gặp, nhất là 6
bệnh: Bại liệt, động kinh, bướu cổ, câm điếc, đau cột sống, hen suyễn.
Từ cô bé Thanh làm người giúp việc, nhờ tài và tâm đức bà
Lịch dần trở thành dì Sáu Lịch, bà lang Hàng Xanh nổi tiếng, rồi được truyền
tụng là “thánh y” và
rộng mở vòng tay cho bệnh nhân
khắp nơi tìm đến:
Quan Âm Bồ Tát tảo
tần
Nghiêng bàn tay
xuống cõi trần thương đau...
3. Truyền nhân Thập thủ đạo
Cụ Lịch có hàng ngàn học trò là người Việt,
người nước ngoài, nhưng ở phía Bắc hiện chỉ có Lương y Lê Minh và Tiến sĩ Y
khoa Trần Thống Nhất nắm giữ được các bí truyền của Thập thủ đạo.
Năm 2007 cụ Lịch mất, phương pháp bấm huyệt
chữa bệnh Thập thủ đạo chìm vào quên lãng. Các truyền nhân của cụ tứ tán, hầu
như về “ở ẩn” chữa bệnh, nhưng họ vẫn trân trọng những thói quen, nguyên tắc và
quy trình chữa bệnh rất nhân văn của cụ Lịch: Ai có tiền thì trả, không có thì
cứ về, chứ không đòi hỏi bệnh nhân.
Năm 2011, nhận lời mời của Trung tâm Nghiên Cứu Tiềm Năng Con
Người (nay là Viện Nghiên cứu Ứng dụng tiềm năng con người), Lương y Lê Minh và
Tiến sĩ Y khoa Trần Thống Nhất đã giới thiệu bộ môn bấm huyệt Thập Thủ Đạo và
phổ biến ra toàn thể cộng đồng. Ngay lập tức phương pháp chữa bệnh không dùng
thuốc Thập thủ đạo đơn giản, dễ học, dễ ứng dụng và hiệu quả đã thu hút rất
nhiều người học.
Tiến sĩ Trần Thống Nhất giải thích, nhiều người cho Thập thủ đạo bấm
huyệt chữa bệnh là thần bí, khó hiểu. Nhưng nên hiểu đơn giản là: Máu là gốc
của sự sống. Bộ phận nào trên cơ thể ít được bơm máu, hoặc không được máu nuôi dưỡng thì sẽ là “điểm đen ” trong cơ thể sống và thành bệnh. Bí thuật của Thập thủ đạo là dùng phối hợp các khóa và
cách bấm huyệt kích thích hệ tuần hoàn dẫn máu đến đúng những “điểm đen; phục
hồi dần dần tuần hoàn của vùng đó để chữa bệnh” (lý giải vì sao có thể bấm
huyệt cho người teo cơ, bại liệt khỏe lại, người bị điếc nghe được, bị câm nói
được…). Tuy Thập thủ đạo kỳ diệu, nhưng theo cơ chế trên thì không phải bệnh
nào bấm huyệt cũng khỏi, mà hiệu quả nhất là bệnh liên quan đến việc lưu chuyển
máu kém.
Hai ông Lê Minh và Trần Thống Nhất đã kiên nhẫn “cầm tay, chỉ việc” dạy
từng người tự khai thông các huyệt đạo, làm nóng ấm cơ thể… và tự chữa một số
bệnh thông thường rất hiệu quả… Vì vậy Thập thủ đạo đã lan truyền mạnh thành
phong trào từ mấy năm nay ở Hà Nội. Lương y Lê Minh đã 78 tuổi, ông rất khỏe
mạnh và nhanh nhẹn. Đôi tay ông săn chắc, các ngón cứng như thép. Cứ một tay
ông khóa huyệt, tay kia bấm lần lượt các huyệt đạo dẻo thoăn thoắt trên cơ thể
bệnh nhân. Chỉ ít phút là các triệu chứng đau cổ vai gáy, cột sống, viêm khớp,
cảm cúm…thuyên giảm. Nhiều trường hợp
bệnh nặng mãn tính như mất ngủ, bại liệt, cứng khớp, viêm quanh khớp vai… cũng
được giảm dần và khỏi hẳn. Lương y Lê Minh kể, có người bị đau cứng cổ vai gáy
chữa trị rất nhiều nơi từ 20 năm nay không khỏi, nhưng tới ông chỉ khai thông
12 huyệt cơ bản, bấm một số huyệt… sau 3 lần chữa anh ta đã khỏi các triệu
chứng, khiến vợ anh vất vả bao năm đưa chồng đi bệnh viện đã trào nước mắt vì
cảm phục.
Ông Lê Minh có khá nhiều bệnh nhân ngoại quốc, đáng chú ý là bệnh nhân
người Anh (lấy vợ Việt và đang làm việc ở Nam Định) mùa đông nào cũng “bắt” vợ
đưa lên Hà Nội, leo lên căn gác phố cổ để được “đôi bàn tay kỳ diệu” của ông Lê
Minh chữa trị. Anh ta còn thích thú giới thiệu các đồng hương đến chữa bệnh
“kiểu Việt Nam”… Học trò của ông Lê Minh từ nước ngoài về thụ giáo rồi đem Thập
thủ đạo ra nước ngoài mưu sinh. Đặc biệt ông Lê Minh đang truyền dạy Thập thủ
đạo cho một số người mù học nghề để họ giúp đời và có thêm thu nhập.
4. Nét độc đáo của Thập thủ đạo
Theo Tiến sĩ Trần
Thống Nhất, Thập thủ đạo có nhiều điểm rất độc đáo so với các phương pháp chữa
bệnh khác. Nó không sử dụng các huyệt châm cứu thông thường. Ngay những kiến
thức tây y thuần tuý cũng khó giải thích, nhưng đã điều trị chứng suyễn, cao
huyết áp, mất ngủ... rất hiệu quả.
Đầu tiên Thập thủ đạo
bắt buộc học trò khai thông huyệt đạo (tùy theo sức khỏe của bệnh nhân) để khởi động cho
cơ thể chịu sự bấm huyệt, không gây phản xạ co cứng cơ. Nếu người bệnh tăng
xông (huyết áp ) thấp thì phải bấm để đẩy lên, còn tăng xông cao thì lại bấm để
đưa xuống. Có bấm huyệt đúng thì bệnh nhân mới không bị ngất.
Nét khác biệt nữa là
người chữa một tay bấm thì tay kia luôn giữ khoá huyệt (như bấm nốt đàn), tay
kia bấm huyệt (như gẩy dây đàn). Có khoảng 40 loại khóa trong đó 4 loại khoá
chính là khoá hổ khẩu (cổ tay), khoá khô khốc (cổ chân), khoá cơ bản (ngón
tay), khoá bí huyền (đầu gối). Khoá nhằm tăng cường hoặc hãm phanh các kích
thích và cho phép tăng cường khí huyết đến vùng bệnh đúng theo ý của người chữa
bệnh và
vừa sức với bệnh nhân.
Đặc biệt Thập thủ đạo
sử dụng các huyệt hồi sinh (bắt nguồn từ Ấn Độ) để trợ sức, có tác dụng cấp
cứu. Nếu bệnh nhân yếu, có thể dùng thủ pháp Biến điện - dùng ngón cái bấm,
hoặc day trên một số huyệt trong một thời gian nhất định với tâm niệm “tập
trung truyền sinh lực vào người bệnh”. Biến điện chỉ được dùng khi người chữa
thực sự khoẻ mạnh. Sau vài động tác bấm nhẹ nhàng mặt bệnh nhân đã túa mồ hôi,
đỏ bừng như chạy thể dục.
Tuy các thủ pháp day - bấm rất “nhẹ nhàng”,
nhưng cụ Lịch đã phải học mất 12 năm. Còn các truyền nhân thì rất dày công học
vận khí lực để bấm trúng huyệt mà không đau mới chữa được bệnh.
Gần đây, Tiến sĩ Trần Thống Nhất đã sưu tầm và
dựng nhiều clip dạy học trò hiểu rõ về cơ thể người, về cơ xương khớp và vận
hành tuần hoàn… để giúp học viên vận dụng chữa bệnh tốt hơn, đồng thời cho mọi
người thấy môn bấm huyệt Thập thủ đạo rất khoa học, chứ không dị đoan như suy nghĩ của một số người.
Theo Lương y Lê Minh, Thập thủ
đạo sử dụng vọng, văn, vấn, thiết của
Đông y để chẩn bệnh. Vọng là quan sát hình thái, sắc mặt…; Văn là nghe tiếng
nói, tiếng ho, tiếng thở…
; Ngửi là ngửi khí vị (ngửi hơi thở, mồ hôi…); Vấn là hỏi (để biết họ
nóng, lạnh, vị trí đau…); Thiết là sờ nắn (bụng,
lòng bàn chân, tay, vùng bị bệnh, bắt
mạch…), nhằm đánh giá thể trạng rồi mới chẩn bệnh. Ai yếu, hoặc bệnh
không quen chữa thì không nên nhận; Nếu mạch khoẻ, bấm không sợ bệnh nhân ngất
xỉu thì mới nhận chữa. Vừa bấm huyệt, vừa theo dõi tác dụng của bấm có chuyển
biến sắc mặt không, từ đó điều chỉnh cường độ và trường độ bấm huyệt. Lương y
Lê Minh sử dụng nhiều về mạch. Ông giải thích rằng, trong Tây y đếm mạch nhanh
- chậm, Đông y ngoài việc chẩn mạch rất phức tạp họ còn dựa vào tĩnh mạch ở
ngón tay (chỉ văn) để chẩn bệnh. Thập thủ đạo dựa vào vị trí di lệch của ven để xem
xét các hình dạng ứ đọng máu của các tĩnh mạch để suy ra vùng tổn thương. Lý luận
dẫn máu của Thập thủ đạo cũng đặc biệt: Dồn máu xuống, đưa máu lên (thay máu ở
vùng bệnh) và dùng thủ thuật bấm huyệt day, xoa, nắn cho khối cơ di chuyển, dẫn
máu xuống chỗ trũng, giảm sưng cứng.
Nét độc đáo nữa ở chỗ bấm từ đầu ngón chân,
ngón tay cho các cơ di chuyển, co giật nhằm để đẩy máu và hiệu quả rất tốt (chứ
ít day bấm xoa bóp tại chỗ gây đau, khó làm).
Lương y Lê Minh ngậm ngùi: Bấm huyệt Thập thủ đạo hỗ trợ chữa bệnh rất
hiệu quả. Hiện ông vẫn đang tìm truyền nhân để trao lại những kiến thức Thập
thủ đạo học được từ cụ Lịch. Các truyền nhân của cụ Lịch giờ đã già hết, họ
không còn bị ảnh hưởng bởi danh và lợi, mà chỉ cần tìm học trò có tâm đức, trí
tuệ, và lòng kiên trì để kế thừa, kẻo Thập thủ đạo mà thất truyền thì… tiếc
lắm. Nhưng tìm được truyền nhân đâu có dễ, bởi
ngoài giàu tình yêu thương, tâm
huyết, họ cần có giữ cái TÂM trong sạch, cần phải thương yêu
bệnh nhân và phải có cảm nhận nỗi đau
của bệnh nhân là cái đau của chính bản thân mình.
Hành nghề hơn 40 năm
(từ 1960 - 2007) cụ Lịch chữa bệnh cho rất nhiều người. Lượng bệnh nhân của bà
không thống kê hết, nhưng năm 1983 đã có ngót 200 chiếc nạng và hàng chục chiếc
xe lăn của bệnh nhân bỏ lại nhà bà sau khi được giải thoát bệnh tật.
Ngày 29/2/1992 cựu Bộ trưởng Bộ Y tế, Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng
đã viết thư gửi Lương y Huỳnh Thị Lịch với những lời cảm kích (xin trích đăng):
Tôi phục cô ở chỗ
có lòng tự hào dân tộc, nhân từ, đạo đức, lo cho nhân dân, lấy chân lý làm
vinh, làm lương y với đôi tay thần luyện, với lòng thương bao la không biên
giới.
Thương Cô ở chỗ:
Chưa thoát hết trần tục, còn vấn vương chưa được tuyên dương công nhận, chưa
thấy rằng nhân dân công nhận là tối cao, tột đỉnh. Nhà nước làm sao thấy hết
được sự việc của nhân dân đã làm. Địa vị của nhà nước ban chẳng qua là phù vân
của xã hội. Ban hay không ban, mình cứ việc làm tròn nhiệm vụ đối với nhân dân.
…Rồi phải tập hợp
học trò cũ lại, viết lại kỹ thuật khám bệnh tài tình, học trò chưa hiểu rõ, lựa
chọn người tiến bộ để đào tạo huấn luyện viên đặc biệt sẽ nối nghiệp Cô...
H D
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét