TÂM LINH VÀ
CỔ VẬT
Xuân Ngọc
Năm
2012 Viện Nghiên cứu và Ứng dụng tiềm năng con người nhận được bộ sưu tập 6 hiện
vật bằng đồng để nghiên cứu và nếu được phép sẽ bán đấu giá để làm Quỹ nghiên cứu
cho Viện và một phần cho người tìm được. Bộ sưu tập vẫn để ở nhà một cán bộ
trong Viện mấy năm nay vì Viện không có chỗ giữ an toàn. Giữa năm 2014 Viện tổ
chức khảo sát đánh giá niên đại và giá trị hiện vật. Các nhà khảo cổ đã nghiên
cứu và xác định được niên đại các hiện vật. Trong quá trình làm việc, Lãnh đạo
Viện đã chú ý đến việc nghiên cứu về mặt tâm linh để có ứng sử đúng đắn và dự định
sẽ làm việc này sau khi hiểu rõ giá trị lịch sử của các hiện vật. Viện chuẩn bị
sang giai đoạn nhờ đánh giá giá trị của hiện vật thì bức màn huyền bí được vén
lên, như một sự sắp đặt thần kỳ của Trời Đất, thông qua các nhà ngoại cảm. Quá
trình tìm được, sự trôi nổi của hiện vật được làm rõ và kèm theo đó là những
câu chuyện và những bài học tâm linh sâu sắc.
Ngày
23-12-2014 theo lịch đã định, bà Trần Thị Anh Thơ tư vấn tại Viện. Con bị ốm,
bà không đến được và báo Viện xin nghỉ. Ban Tư vấn đã mời ông Trần Văn Lưu
giúp.
Bà T
và chồng là người đào được hiện vật, sống tại Tp N. Sáng đó bà bồn chồn không
yên, lòng như lửa đốt và quyết định lên Hà Nội. Trong túi hết tiền, bà phải lên
Ban thờ xin lộc mang đi làm lộ phí. Bà đến Hà Nội từ trưa nhưng lúc 3 giờ chiều
mới đến Viện, đúng lúc ông Lưu tư vấn xong cho người cuối cùng. Bà T được mời
lên Ban thờ Phật của Viện và ở đây đã diễn ra cuộc giao tiếp âm - dương kỳ lạ.
Qua ông Lưu “Bề Trên” đã nói:
- Hai vợ chồng bà T đang lâm cảnh khó khăn, làm
ăn thua lỗ, suốt ngày chủ nợ gọi điện thoại đòi nợ, máy móc hỏng hóc, không làm
ăn được gì (bà T cố cãi không có máy nào hỏng cả song cuối cùng nói máy ép gạch
hỏng từ tháng 3 và các điều về làm ăn, mắc nợ đều đúng).
- Khẳng
định nhà bà T đào được 7 hiện vật (Viện chỉ biết có 6). Bà T thừa nhận có đào
được 7 vật, có một mỏng bị vỡ, người chơi đồ cổ đã mua. Ông Lưu còn tả các hiện
vật rất chính xác. Khi nói đến bức tượng, một chị trong Viện nói: Tượng Phật?
Ông Lưu quát: Không phải tượng Phật nhưng cũng cao quý như Phật và tả khá chính
xác pho tượng, có mũ như vương miện. Sau ông nói tiếp “Còn vật gì như đầu cơ
nghiệp?”. Đó đúng là tượng con trâu.
- “Bề
Trên” qua ông Lưu mắng bà T: Cho để thờ, sao lại đem rao bán. Tham thì thâm. Tại
sao lại đưa ta lên bàn cân. Lại còn mang máy về dò, tìm vàng hả. Ở dưới đó còn
nhiều đồ, ta chưa cho thì không được lấy. Hôm nay cha sai ta về đây để dậy bảo
nhà ngươi.
- Lại
mắng tiếp: “Đất có phải của nhà ngươi đâu mà đem rao bán”. Bề trên qua ông Lưu
tả rất chính xác mảnh đất mà ông bà T mua trước đây: Mặt trước nhìn ra sông rất
đẹp, đàng sau là rãnh. Mảnh đất này ông bà T mua rất nhanh khi không hề có tiền
nhưng cứ hứa 9 ngày sẽ trả. Đúng 9 ngày ông bà đã chồng đủ tiền mua (chủ yếu là
tiền vay, kể cả người không thân cũng dễ dàng cho bà T vay hàng chục cây vàng).
Lúc túng quẫn ông bà rao bán thì không sao bán được. Ông chồng bà T kể có lần
ba ngày liền ông “thấy” bà Chúa cùng 4 cô mặc xiêm y lộng lẫy nhảy múa rất đẹp
nên ông tin là đất thiêng.
- “Bề
trên” còn khẳng định trong nhà có hai két sắt, két to mua về để Ngài (chỉ bức
tượng) và các hiện vật và yêu cầu phải mang tượng về thờ.
Sau
đó bà T kể tường tận việc nhà bà được mách bảo tìm các hiện vật trên như thế
nào. Cách nay sáu năm gần khu ông bà ở cần thi công một đoạn cống. Chín gia đình
nhận làm nhưng không làm nổi vì không tổ chức được bà con họp bàn bạc quyết định.
Gia đình ông bà là thứ 10 nhận thi công đoạn cống. Trước đó ông chồng bà T đã
được sang tai: Cứ nhận đi, bà con sẽ đồng
ý. Quả thật, ông bà mời họp, bà con đến đông đủ và nhất trí việc thi công của
ông bà. Đang làm chồng bà được sang tai: Ta
cho con, con xuống mà mang lên. Chồng bà mang lên được 7 hiện vật trong đó
có một đồ mỏng bị vỡ. Bà T thu gom các mảnh vỡ và rửa sạch. Có người chơi đồ cổ
hỏi mua, bà bán được 700.000 đ, liền khao những công nhân giúp ông bà thi công.
Ông được sang tai là phải giữ ba năm mới được tính tiếp. Ông bà đã mua một két
to để các hiện vật. Mỗi tháng ông lại được “chỉ thị” quay hướng két. Hết ba năm
họ định bán thì được nghe lệnh: Phải thờ.
Song bà T rất sợ, không dám thực hiện việc thờ cúng. Bà tính chuyện bán song mỗi
lần nói chuyện bán các hiện vật để trả nợ, gia đình bà lại liêu siêu. Có một số người đến mua, mang về nhà song đều
gặp chuyện không may đành trả lại. Ông bà rơi vào cảnh nợ nần, tiền họ đưa đã
mua vật dụng cho sản xuất, không có gì để trả lại. Bà sợ quá định đem các hiện
vật đi khỏi nhà. Ông chồng bà bảo: “Các
ngài nói phải thờ, bà mang đi nhưng cuối cùng vẫn sẽ phải mang về thờ cúng”.
Bà nói bướng: Nếu mang về thì tôi vứt xuống sông. Bà tự mình mang các hiện vật
đến điện của bà Đ ở Hòa Bình. Bà Đ gọi
cho ông NND, nhờ ông giới thiệu cho một cơ quan tiếp nhận các hiện vật để
nghiên cứu và giải quyết các vấn đề liên quan.
Nhờ
ông NND giới hiệu, 6 hiện vật đến Viện NCƯDTNCN. Ông D kể ông vào Phú Yên đã đến
tượng Thiên Y Thánh Mẫu. Khi ông áp tai vào tượng của Ngài thì ông “thấy” một
tượng nữ đội vương miện. Một tuần sau ông được bà Đ mời lên để nhờ giới thiệu
cơ quan tiếp nhận hiện vật. Ông sửng sốt thấy trong các hiện vật có bức tượng
giống hệt bức tượng ông đã “nhìn thấy” ở Phú Yên. Biết đây là những hiện vật
liên quan đến tâm linh ông đề nghị giao cho Viện.
Sau
khi được biết được các thông tin trên, Lãnh đạo Viện đã họp và quyết định trao
trả lại các hiện vật cho người đào được để họ thờ cúng theo đúng những gì mà
tâm linh mách bảo. Họ cần có đơn xin nhận lại hiện vật, trong đó phải có sự cam
kết cụ thể: Phải thờ cúng nghiêm túc, giữ gìn cẩn thận, không được phép bán,…
Ngày
25-12 bà T mang đơn lên. Phó Viện trưởng đang đọc đơn thì như Trời sai khiến,
bà Nguyễn Thị Sông từ Bắc Giang đến Viện và vào phòng. Vừa an tọa và nghe đọc
vài câu trong đơn thì mặt bà đỏ lên, bà xưng là Chúa và mắng bà T té tát. Bà bảo
các ý như sau:
-
Bảo thờ sao đem
bán
-
Sao lấy khoan chọc
vào ta, muốn xem có phải vàng không à (Bà T chối, nói là chỉ lau chùi cho sạch
liền bị mắng. Sau bà công nhận ở nhà có khoan để thử xem chất liệu tượng là gì)
-
Đất của ta, để thờ
ta, không được bán. Đất đẹp, nhìn ra sông. Ta có 5 mảnh kia (thực tế mảnh của
bà T ở giữa, hai bên đều có hai mảnh còn chưa xây dựng gì, có lẽ đất này là của
một ngôi đền xa xưa bị thời gian làm hư hại?). Phải thờ ta ở nơi ấy. Bà T xin
thờ ở nhà liền bị mắng té tát và dọa nếu không làm theo sẽ cho ngồi một chỗ.
-
Phải làm đền để
thờ. Chưa có tiền thì làm nhỏ, không được làm mái bằng, phải có hai mái, cứ làm
sẽ cho tiền.
-
Ngày 9 phải mang
về nhưng 9 giờ tối mới được làm lễ, không cho ai biết. Phải sắm lễ ở Viện để
xin về (chín bông hoa, chín loại quả, chín cây nến), phải đến lễ tạ Thần linh
nơi trông giữ hai năm qua, …
-
Bà T sẽ phải làm
ghế cho Ngài để Ngài giúp dân. Chồng chỉ là thủ từ. Ngài cho chồng có khả năng
nhìn thấy và nghe thấy để khuất phục tính bướng bỉnh và tính không tin của vợ,
giáo dục vợ. (Thực tế chồng bà T đã nghe và thấy được nhiều điều, đã chữa cho
được một số người khỏi bệnh).
Sau các cuộc giao tiếp rất kỳ
lạ và sống động trên, bà T bị thuyết phục hoàn toàn và ngộ được là phải thực hiện
nghĩa vụ của mình. Bà gọi điện cho người đang giữ hiện vật xin đến lễ tạ song
ông bận không tiếp được. Không hiểu sao bà không về mà cứ loanh quanh ở Viện và
nhà ông NND. Chiều bà lại sang Viện nói chuyện và bất chợt ông Trần Văn Lưu ghé
đến. Ngài lại “giáng” vào ông, yêu cầu bà T nhanh chóng hoàn tất mọi việc, phải
đến nhà người giữ các hiện vật ngay buổi chiều để lễ tạ. Bà gọi tăc xi để đi
cùng mấy cán bộ Viện mà trong túi còn rất ít tiền. Không hiểu sao người lái xe
lại công đức cả chuyến xe đi về hơn hai chục cây số và còn nói nếu về NĐ anh
cũng không lấy tiền.
Ba cuộc giao tiếp Âm-Dương
không định trước, nội dung các Chư vị cho lại trùng khớp lạ kỳ và hoàn toàn
đúng với thực tế. Lãnh đạo Viện đã dặn dò kỹ ông bà T: Các Ngài đã chọn hai người
thờ cúng và giao nhiệm vụ phải giúp bà con. Cần làm đúng những gì tâm linh mách
bảo, đừng vì danh vì lợi. Chồng bà T mấy năm qua cũng đã xuất hiện một số khả
năng giao tiếp tâm linh, chữa bệnh, tìm mộ. Ông đã thực hiện nguyên tắc: Giúp
vô điều kiện, không danh, không lợi. Gia đình ông bà cưu mang những bệnh nhân
khốn khó.
Viện đã tổ chức Lễ trao lại
các hiện vật theo đúng tâm linh mách bảo vào 9h sáng ngày 9-11 âm. Đúng 9 giờ tối
cùng ngày ông bà T làm lễ an vị Ngài ở Ban thờ trong gian nhà cấp 4 trên mảnh đất
của Ngài. Bà T gọi điện kể: Bà mua nến cùng chỗ, 9 cây thắp ở Viện thì cháy
bình thường còn 9 cây nến đốt buổi tối ở Ban thờ Ngài thì nổ như pháo hoa, rất
đẹp, bà không hiểu nổi. Mặc dù còn mang công mắc nợ nhiều nhưng ông bà T đã khởi
công xây dựng đền thờ Ngài vào ngày thứ sáu 9-1-2015 (tức 19 - 11 âm). Và lạ
thay đã có người hứa cho vay tiền xây đền. Ông T được sang tai: Bọn ĐÔNG – TÂY
sẽ gửi tiền cho con. Khi được báo tiền về tài khỏan, ông nghĩ người phía Tây đã
gửi và có lẽ còn người phía Đông? Song thực tế không phải như vậy. Một công ty
có tên ĐÔNG - TÂY gửi tiền cho ông bà xây đền.
Bà T rút ra: Tất cả cái gì
liên quan đến Ngài đều gắn với số 9: Trọng lượng tượng Ngài tận cùng bằng số 9,
các vật khác cũng vậy, 9h tối mang đến điện bà Đ, ngày 9 đón Ngài về, đến Viện
lúc 9 h sáng, 9h tối làm lễ, lễ phải có 9 hoa, 9 loại quả, 9 nến, ngày 19 khởi
công xây dựng đền, …
Qua sự việc này ta thấy nhiều
điều chưa cắt nghĩa được nhưng đã được một bài học sâu sắc về việc ứng sử với
các cổ vật. Giá trị cao nhất của cổ vật không phải giá trị lịch sử và kinh tế.
Đó là giá trị tâm linh, là vô giá. Các cụ đã dậy chúng ta: Phải biết trân trọng
tâm linh, trân trọng Thánh Thần, trân trọng Tổ Tiên và cội nguồn.