VẤN
ĐỀ GIÁM ĐỊNH VẬT TÙY TÁNG VÀ HÀI CỐT
TRONG
VIỆC TÌM HÀI CỐT LIỆT SĨ
Ngô
Tiến Quý[1]
Ngày 14.01.2013, Chính phủ ban hành Quyết định số 150/QĐ-CP
quy định việc xác định danh tính liệt sĩ chưa rõ thông tin phải bằng phương
pháp thực chứng và giám định gen. Trong
phạm vi bài viết này, phần đầu chúng tôi xin cung cấp cho đọc giả những hiểu biết
rất cơ bản về khả năng áp dụng giám định Kĩ thuật hình sự (GĐ KTHS) trong việc tìm hài cốt liệt sĩ. Phần
thứ hai sẽ đề cặp đến vấn đề giám định hài cốt trong việc tìm mộ liệt sĩ, với
tâm nguyện góp phần nâng cao hiệu quả và đảm bảo độ chính xác trong việc xác định
hài cốt liệt sĩ, những người đã hy sinh vì nền độc lập và tự do của Tổ quốc, để
chúng ta có được ngày hôm nay và để góp phần thực hiện đúng Quyết định 150 của
Chính phủ.
1.
Trên thế giới, GĐ KTHS đã có từ hơn 100 năm nay. GĐ KTHS là một lĩnh vực chuyên
môn, nghiệp vụ của ngành Công an, ứng dụng tất cả những tiến bộ khoa học, kĩ
thuật và công nghệ vào việc phát hiện, thu thập, giám định vật chứng và dấu vết
của vụ việc, phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm cũng như xử
lý các vi phạm pháp luật khác. GĐ KTHS cũng đáp ứng việc giải quyết các yêu cầu
về dân sự và hành chính.
Hiện nay, GĐ KTHS có những lĩnh vực
chuyên môn có thể liên quan đến việc xác định danh tính liệt sĩ như sau:
- Giám định súng đạn và dấu vết súng đạn
- Giám định Kĩ thuật, kim loại, nhựa
- Giám định chất nổ, vật nổ
- Giám định chữ viết, giấy, mực viết
- Giám định Hóa học
- Giám định Lý học
- Giám định Sinh học.
Liên hệ với việc tìm mộ liệt sĩ trong những năm vừa qua,
chúng tôi thấy rằng GĐ KTHS có thể hỗ trợ rất nhiều cho việc xác định sự thật
trong việc tìm mộ, xác định danh tính của liệt sĩ, hoàn cảnh hi sinh, hoàn cảnh
chôn cất,… thông qua giám định các vật tùy táng thu được trong khi khai quật
hài cốt. Mặt khác GĐ KTHS cũng là một biện pháp khoa học hữu hiệu nhất để phát
hiện những vật tùy táng khi có nghi vấn là vật giả (đặc biệt là việc tìm mộ Liệt
sĩ do những người là các nhà ngoại cảm giả mạo thực hiện để đánh lừa thân nhân
liệt sĩ cũng như những người khác).
Qua thực tiễn tìm mộ liệt sĩ, chúng tôi thấy xuất hiện rất
nhiều vật tùy táng khác nhau, nhưng chủ yếu có thể liệt kê các loại sau đây:
- Viên đạn, đầu đạn hoặc vỏ đạn, vỏ quả lựu đạn…chủ yếu thuộc
hệ thống vũ khí cá nhân do các nước xã hội chủ nghĩa trước đây như Việt Nam,
Liên Xô, Trung Quốc sản xuất (AK, CKC, các loại súng ngắn, lựu đạn mỏ vịt…).
Ngoài ra, ở các chiến trường phía nam trước đây còn có đạn của súng AR15 của Mỹ
-
Tăng bạt, võng, quân trang của bộ đội Việt Nam (tăng bạt bọc thi hài liệt sĩ;
quân trang, quân dụng: sao mũ, giày, dép cao su, con dao nhỏ, cúc áo nhưa, miếng
kim loại, bút máy, đồng hồ được đưa vào như những vật để đánh dấu khi có điều
kiện tìm mộ liệt sĩ)
- Những vật dụng hàng ngày (bi đông, ca đựng nước, bát sắt),
mảnh kim loại (thường là nhôm, hợp kim nhôm) khắc tên Liệt sĩ, đơn vị của Liệt
sĩ hoặc lược bằng hợp kim nhôm có khắc tên làm vật kỉ niệm của đồng đội, người
yêu liệt sĩ (chiếc lược chải đầu, cặp tóc phụ nữ…)
- Miếng kim loại, tấm gỗ khắc tên liệt sĩ, ngày hi sinh
- Lọ thủy tinh nhỏ (thường là lọ đựng thuốc kháng sinh Penicilin)
được nút chặt, bên trong có mảnh giấy viết tên liệt sĩ, ngày hy sinh, tên đơn vị,
có giấy ghi cả quê quán liệt sĩ, tên thân nhân liệt sĩ
- Răng giả của liệt sĩ bằng kim loại vàng hoặc bọc kim loại
vàng
- Ảnh của liệt sĩ chụp cá nhân hoặc chụp với thân nhân, đồng
đội…
Tần suất xuất hiện của vật tùy táng nói chung là không cao
(có thể là đang trong chiến đấu thì liệt sĩ được chôn cất), có nghĩa là chỉ đôi
khi mới thấy, nhưng giá trị lại rất lớn. Phổ biến nhất là tăng bạt được sử dụng
để bọc thi hài liệt sĩ khi chôn cất.
Tất cả các loại vật tùy táng nêu trên, khi phát hiện thấy
trong quá trình tìm hài cốt, về lý thuyết thì đều có thể giám định để kết hợp với
các thông tin khác, giúp cho việc xác định chính xác danh tính liệt sĩ. Trong
những trường hợp hài cốt của liệt sĩ đã bị phân hủy mạnh hoặc phân hủy hết,
không giám định được gen (AND) thì vật tùy táng là những chứng cứ vật chất vô
cùng có giá trị bên cạnh những thông tin lưu trong hồ sơ liệt sĩ (nếu có) hoặc
do các nhà ngoại cảm, do đồng đội hoặc người dân đã chôn cất liệt sĩ cung cấp.
Để việc giám định thu được kết quả tốt, thì tất cả các vật
tùy táng khi phát hiện được đều phải bảo quản nguyên vẹn, không để bị vỡ, nát.
Trường hợp di vật bị ướt thì phải để khô trong môi trường nhiệt độ bình thường,
không nên phơi nắng hay làm khô bằng máy xấy tóc, hơ trên lửa, bếp ga, bếp điện.
Các vật tùy táng phải được bảo quan riêng rẽ, không gói chung, phải có biên bản
ghi chi tiết nơi thu, hoàn cảnh thu…Nếu là vật có ý nghiã quan trọng thì phải
niêm phong cẩn thận tránh bị lẫn, hư hỏng.
Trong
tất cả các trường hợp đều nên thu mẫu đất nơi có hài cốt (đất ở hố chôn hài cốt, không lẫn xương, mùn xương),
để khô tự nhiên rồi gói bằng giấy, sau mới có thể cho vào túi ni lon.
Giám định là việc phân tích, so sánh nên phải có mẫu so
sánh (vật đối chứng) thì mới ra được kết luận giám định chính xác. Tuy nhiên, với
đặc thù của việc tìm hài cốt liệt sĩ là các vật tùy táng đích thực đều có niên
đại cùng thời liệt sĩ, nên nếu xác định được “tuổi” tương đối của vật tùy táng
(nếu như không có mẫu so sánh) thì cũng giúp thêm cơ sở khoa học trong việc xác
định danh tính liệt sĩ.
Trong trường hợp nghi vật tùy táng bị làm giả thì có thể
dùng phương pháp loại trừ để kết luận.Ví dụ: lọ Penicilin mới được sản xuất chứ
không phải được sản xuất từ những năm 1960 thế kỉ XX (thông qua giám định thủy
tinh), giấy ghi danh liệt sĩ là giấy Bãi Bằng chứ không phải giấy của những năm
chiến tranh (thông qua giám định giấy), mực bút bi mới có sau chiến tranh chứ
không phải mực Cửu Long trước đây…
Nói chung, khi cần biết giá trị của vật tùy táng đối với việc
xác định hài cốt liệt sĩ thì đều phải thông qua GĐ KTHS. Kết quả giám định tùy
thuộc vào từng trường hợp cụ thể, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trực tiếp là vật
tùy táng, chứ không phải vụ nào cũng làm được hoặc cho kết quả chính xác tuyệt
đối.
Trong giám định, nếu có chữ viết của Liệt sĩ (chữ viết sau ảnh,
thư viết cho gia đình chưa kịp gửi...) thì kết luận giám định có giá trị tất lớn,
vì giám định chữ viết truy nguyên (xác định) trực tiếp được người viết. Còn hầu
hết các loại giám định khác đều chỉ truy nguyên (xác định) được gián tiếp.
Tuy
nhiên, khi đang phải “mò kim đáy bể” thì những thông tin dù nhỏ đến mấy, nhưng
lại mang tính khách quan thì đều có ý nghĩa trong việc tìm hài cốt liệt sĩ.
2.
Đối với một bộ hài cốt còn đầy đủ thì có thể tiến hành giám định hình thái và
giám định gen.
Giám định hình thái
là phương pháp giám định cấu trúc bên ngoài của hài cốt. Những năm 1950, 1960 của
thế kỉ XX, nhà khoa học Geraximop của Liên xô đã cho ra đời phương pháp giám định
hình thái sọ người bằng cách đo thủ công các thông số trên bề mặt xương sọ (được
gọi là phương pháp Geraximop). Ngày nay, người ta dùng phương pháp quét trên bề
mặt hộp sọ bằng một phần mềm vi tính để thu thập dữ liệu, độ chính xác rất cao
vì khối lượng đặc điểm được thu thập rất lớn.
Giám định gen
(AND) là một phương pháp khoa học chính xác đề xác định danh tính của một cá thể.
Đối với người sống thì giám định gen trong nhân tế bào (xác định huyết thống).
Đối với hài cốt thì phải giám định gen ty thể.
Tuy nhiên, cơ thể người sau khi chết sẽ nhanh chóng biến đổi về cấu trúc
gen. Thời gian sau chết càng lâu thì gen trong thi thể càng biến tính và mai một
nhiều.
Ở người, gen ty thể có chứa nhiều đặc điểm cấu trúc gen
riêng đặc trưng cho các cá thể trong một nhóm cá thể có nguồn gốc theo dòng mẹ,
vì khi thụ thai, sau khi đầu tinh trùng chui qua màng trứng thì phần cổ và đuôi
rụng ra ngoài không chui vào trong trứng, mà gen ty thể của tinh trùng lại chủ
yếu tập trung ở phần cổ và phần đuôi. Hệ gen ty thể rất bền vững qua nhiều thế
hệ. Tuy nhiên, giám định gen ty thể không có khả năng truy nguyên cá thể, nó chỉ
có tính chất loại trừ hay truy nguyên theo nhóm cá thể có quan hệ huyết thống với
nhau theo dòng mẹ.
Ở hài cốt chôn cất lâu năm, gen chỉ tồn tại một lượng không
nhiều trong ty thể ở những bộ phận có cấu trúc bền vững như răng, xương cứng
(thân tóc cũng mang gen ty thể, nhưng tóc là cấu trúc bị đột biến gen ty thể
nhiều hơn các cấu trúc khác, nên tóc không có giá trị bằng răng và xương). Khả
năng giám định được và kết quả giám định gen ty thể phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
như thời gian chôn cất (càng lâu càng khó làm), nơi chôn cất (chất đất, hóa chất,
siêu vi trùng…), thể trạng người khi còn sống, tình trạng khi chết. Hài cốt đã
mủn, mục, đã hóa thì không thể giám định được gen ty thể.
Trong giám định hài cốt liệt sĩ thì mẫu thu từ hài cốt để
giám định là răng hàm (từ 1-2 chiếc) và mảnh xương bả vai, đùi, cánh tay (mảnh
khoảng 3 cm2 ) chưa mủn, còn cứng. Còn mẫu so sánh thu của thân nhân
theo dòng mẹ là khoảng 4 -5 giọt máu, thấm
vào gạc y tế (không có bông) vô trùng, để khô tự nhiên, sau gói trong giấy sạch
(không gói bằng túi ni lông).
Quy
trình giám định gen ty thể gồm các bước sau: Các mẫu thu từ hài cốt được làm sạch
và nghiền thành bột trong nitơ lỏng, rồi ngâm trong hóa chất đặc biệt. Tiếp
theo là công đoạn tách chiết, công đoạn nhân bản và giải trình tự gen. Những
công đoạn này do máy tự động thực hiện trong môi trường vô trùng. Và cuối cùng
một phần mềm máy tính thực hiện việc so sánh trình tự gen của hài cốt với trình
tự gen mẫu của thân nhân (cũng đã được phân tích theo quy trình giám định gen
trong nhân tế bào).
Hiện
tại, công nghệ giải trình tự gen thế hệ mới – giám định gen trong nhân tế bào
và gen ti thể mới đang đang được giới thiệu,
chứ chưa được đưa vào áp dụng trong thực tiễn. Các phòng thí nghiệm giám
định gen vẫn đang thực hiện giám định theo công nghệ đã có từ mấy năm nay.
Như vậy,
để xác định chính xác danh tính liệt sĩ thì có nhiều phương pháp. Giám định gen
không phải là phương pháp duy nhất, mà còn có cả GĐ KTHS. Tuy nhiên, biện pháp
nào cũng có những giới hạn nhất định, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Chúng tôi xin giới thiệu để độc giả có thông
tin chuẩn xác và tùy cơ áp dụng trong những điều kiện phù hợp./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét