Thứ Năm, 6 tháng 4, 2017

Bài viết của GS TSKH Phan Anh


Bài đăng trong kỷ yếu Hội thảo khoa học toàn quốc về Nghiên cứu và ứng dụng Khả năng đặc biệt của con người.


NHỮNG THÀNH TỰU KHOA HỌC TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY CÓ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC GÓP PHẦN LÀM SÁNG TỎ XUNG QUANH VẤN ĐỀ “KHẢ NĂNG ĐẶC BIỆT CỦA CON NGƯỜI”
Phan Anh[1]
I. Đặt vấn đề
Khả năng đặc biệt của con người là một phạm trù rộng, đa dạng, có liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học.
Trong nghiên cứu về khả năng đặc biệt của con người, thường cách tiếp cận mà chúng ta hay sử dụng là theo phương pháp thực chứng, nghĩa là dựa trên những quan sát thực tế rồi đưa ra kết luận, coi như kết quả. Để giải thích cho những kết quả, khi chưa có được những lý lẽ thỏa đáng người ta thường nói “cho đến nay khoa học chưa giải thích được”. Điều đó có nghĩa Khoa học hiện đại chưa đạt tới mức đủ để làm sáng tỏ trực tiếp và tường minh nhiều hiện tượng đặc biệt, trong đó có khả năng đặc biệt của con người. Tuy nhiên, ở những khía cạnh nào đó thì những thành tựu của khoa học tự nhiên nói chung, trong đó có khoa học công nghệ nói riêng, cũng đã hoặc có thể góp phần nhỏ bé trực tiếp hay gián tiếp giúp con người có những nhận thức để đánh giá về đối tượng nghiên cứu.
Bài viết này, trước hết điểm lại một số thành tựu khoa học đã đạt được trước đây và giới thiệu một số thành tựu của khoa học hiện đại trong những lĩnh vực có liên quan đến khả năng đặc biệt của con người. Tiếp theo là trình bầy những nhận thức và bình luận của tác giả trong việc vận dụng những kiến thức khoa học đó để góp phần làm sáng tỏ một số khía cạnh nào đó trong số những biểu hiện đa dạng có liên quan đến “khả năng đặc biệt của con người”.
II. Lĩnh vực Khoa học Công nghệ
2.1. Sự phát hiện hào quang của con người
a) Hiệu ứng Lichtenberg và Phương pháp chụp hào quang Kirlian
Nhà khoa học Đức, GS Lichtenberg và Kỹ sư người Nga, ông Semyon Kirlian ở những thời gian khác nhau và những quốc gia khác nhau đã tình cờ phát hiện ra hiện tượng phát hào quang của người và thực vật dưới tác động của một điện trường xoay chiều tần số cao. Hiệu ứng này được gọi là hiệu ứng Lichtenberg hay hiệu ứng Kirlian.
Phương pháp chụp hào quang do Kirlian đề xuất năm 1939 đã được một số nhà kỹ thuật sau nhiều năm nghiên cứu đã phát triển thành các thiết bị , cho phép chụp ảnh hào quang của người trong những trạng thái khác nhau về tinh thần: khi thiền định, khi suy nghĩ vui, buồn v.v. [1,2].
Theo phương pháp này, đối tượng chụp (con người hay thực vật) cần được nối với một điện cực của một nguồn điện cao tần có điện áp ở mức độ an toàn. Hình ảnh hào quang được chụp bằng máy ảnh thông thường. Trong một số trường hợp người ta có thể nhận biết hào quang bằng mắt thường khi điện trường cao tần có biên độ đủ lớn

Hình 1. Thiết bị và phương pháp chụp hào quang con người

                           (a) Thiền định                 (b) Buồn rầu          (c) Vui vẻ
                             Hình 2. Một vài hình ảnh hào quang của người chụp bằng thiết bị Kirlian    

b) Phương pháp đo hào quang bằng Trường cộng hưởng ( Resonant Field Immaging ) 
        Phương pháp đo hào quang bằng Trường cộng hưởng  được các nhà nghiên cứu công nghệ của công ty Innovation Technologies Medicine của Mỹ thiết kế và chế tạo dựa trên nguyên lý khác hoàn toàn với phương pháp của Kirlian. Theo nguyên lý này mỗi bộ phận của cơ thể con người luôn phát ra các bức xạ dưới dạng bức xạ điện từ với các tần số khác nhau tùy thuộc vào vị trí trên cơ thể và tùy theo trạng thái của đối tượng nghiên cứu. Thiết bị đo hào quang chính là một máy đo tần số vô tuyến điện cầm tay cho phép rà trên cơ thể đối tượng, thu nhận các bức xạ điện từ có tần số khác nhau thông qua một anten cảm ứng. Các kết quả đo được chuyển vào máy tính lưu giữ và được xử lý bằng một phần mềm chuyên dụng. Tổng hợp các kết quả đo tại các vị trí khác nhau cho ta một hình ảnh về hào quang của đối tượng, được thể hiện trên màn hình máy tính [3] . Đây có thể được coi như một thành tựu áp dụng Công nghệ Vô tuyến Điện tử kết hợp với Công nghệ thông tin trong xử lý tín hiệu.
Thiết bị này có tên gọi là RFI, viết tắt của  Resonant Field Immaging
Hình 3. Máy RFI dùng phương pháp đo tần số để thu thập số liệu hào quang

              Hình 4. (a) Hào quang cơ thể       (b)  Hào quang não bộ  

2.2. Phương pháp chụp dựa trên nguyên lý Cộng hưởng từ hạt nhân
a) Hiệu ứng cộng hưởng từ hạt nhân :
          Hiệu ứng cộng hưởng từ hạt nhân do 2 nhà khoa học là Felix Block và Edward Purcell phát hiện năm 1946, có nội dung như sau:
          Mỗi hạt nhân nguyên tử trong môi trường vật chất đều mang một moment từ tạo ra bởi sự xoay nội tại của nó. Ở trạng thái bình thường, các moment từ này sắp xếp một cách ngẫu nhiên và từ trường của chúng triệt tiêu lẫn nhau.  Khi có một từ trường tĩnh đủ mạnh tác động từ bên ngoài, các moment từ sẽ được sắp xếp lại để có phương song song và cùng hướng hoặc ngược hướng với từ trường ngoài. Khi ta cho một trường điện từ cao tần tác động vào các moment từ nói trên, véc tơ của các moment từ sẽ bị lệch đi và đầu mút véc tơ sẽ chuyển động, xoay đảo quanh hướng moment từ ban đầu. Khi ngừng tác động của trường cao tần ngoài thì các véc tơ moment từ sẽ ngừng quay đảo và trở lại hướng ban đầu. Quá trình trở về này sẽ giải phóng ra phần năng lượng đã hấp thụ của trường cao tần lúc trước. Năng lượng được giải phóng này có  dạng sóng vô tuyến điện.
b) Chụp cộng hưởng từ hạt nhân (MRI: Magnetic Resonance Imaging)
MRI là kỹ thuật chụp cắt lớp cơ thể con người sử dụng hiệu ứng cộng hưởng từ hạt nhân nói ở trên. Nguyên tử Hydrogen trong cơ thể dưới tác động từ trường và sóng vô tuyến điện, hấp thụ và giải phóng năng lượng sóng vô tuyến. Các mô cơ thể khác nhau sẽ hấp thụ và giải phóng năng lượng khác nhau. Quá trình giải phóng năng lượng được hệ thống vô tuyến thu nhận, xử lý, chuyển đổi thành các tín hiệu hình ảnh nhờ công nghệ thông tin [4 ].
Chụp cộng hưởng từ hạt nhân là kỹ thuật hiện đại, mang tính cách mạng kỹ thuật đối với y học. Ngày nay, MRI  được sử dụng rộng rãi bởi sự chính xác, an toàn, không xâm nhập và không dùng tia X. Hình ảnh có độ phân giải cao, khảo sát đa mặt cắt, có khả năng tái tạo trong không gian 3 chiều.



        Hình 5. Hình ảnh chụp não bộ người    Hình 6. Máy chụp cộng hưởng từ hạt nhân

 2.3. Bình luận thứ nhất
1. Trong hai thập niên vừa qua, khoa học - công nghệ đã đạt nhiều thành tựu cực kỳ to lớn làm thay đổi bộ mặt của toàn thế giới, trong đó phải kể đến Internet và Viễn thông mà cốt lõi trong đó là Công nghệ thông tin.
2. Cuộc cách mạng trong khoa học công nghệ vẫn đang tiếp diễn với nhiều hứa hẹn, đặc biệt trong lĩnh vực Năng lượng, Giao thông với những nguyên lý mới mà  kỳ vọng có thể trở thành hiện thực trong vòng 10 đến 20 năm tới :
Về năng lượng: Sử dụng năng lượng sạch từ nguồn mặt trời.
Việc biến ánh sáng mặt trời thành điện năng là điều hiện thực, pin mặt trời đã và đang có vai trò quan trọng trong cuộc sống, nhưng việc lưu giữ để sử dụng lâu dài nguồn năng lượng này lại không phải dễ dàng. Khoa học công nghệ sẽ biến năng lượng mặt trời thành một dạng năng lượng hóa thạch để có thể lưu giữ và sử dụng lâu dài sau đó.
Về giao thôngHyperloop là đề án về hệ thống giao thông siêu tốc trên mặt đất.
Phương tiện chuyên chở sẽ được di chuyển trong các ống giảm áp, trên đệm không khí, còn sức đẩy được tạo ra bởi các động cơ cảm ứng và máy nén khí. Ý tưởng trên đã được thử nghiệm thành công với vận tốc chuyển động có thể đạt tới 1200 km/giờ.
Động cơ lượng tử là một nguyên lý hoàn toàn mới, không dùng nhiên liệu truyền thống, có thể đạt tốc độ tới 1000 Km/giây. Động cơ lượng tử còn được gọi là động cơ phản hấp dẫn, có tác động vô hiệu hóa trọng lực của các vật thể, thích hợp cho các thiết bị trong ngành hàng không vũ trụ mà  hình ảnh các đĩa bay của người ngoài hành tinh có thể lấy làm ví dụ.
3. Khoa học Công nghệ đã, đang và hứa hẹn đạt được nhiều thành tựu to lớn phục vụ đời sống và sự phát triển nền văn minh của nhân loại, tuy nhiên, những công nghệ có liên quan đến việc hỗ trợ làm sáng tỏ khả năng đặc biệt của con người thì còn rất khiêm tốn :
- Sự phát hiện ra hào quang con người với những biểu hiện khác nhau trong những trạng thái tâm hồn và tư duy có thể giúp làm sáng tỏ sự khác biệt giữa những con người bình thường và những người có khả năng đặc biệt, giữa trạng thái bình thường và trạng thái hoạt động ngoại cảm của nhà ngoại cảm v.v .
- Việc đo hào quang bằng thiết bị đo RFI cho ta biết về những sự khác biệt ở tầm vĩ mô, ngoại vi của con người còn chụp cộng hưởng từ hạt nhân MRI cho ta biết về những sự khác biệt ở tầm vi mô, về cấu trúc bên trong của con người.
4. Có thể nhận thấy rằng, trong tương lai gần cũng như xa, Khoa học công nghệ chưa hứa hẹn đem lại cho chúng ta những phương tiện mới nào để góp phần làm sáng tỏ hơn về những khả năng đặc biệt của con người. Điều đó có nghĩa, Nghiên cứu về những khả năng đặc biệt của con người cần phải được tiến hành theo những phương pháp riêng, phù hợp mà không thể dựa vào những phương tiện sẵn có.
Hình 7. Gen được cấu tạo từ DNA. Mỗi nhiễm sắc thể (chromosome) hàm chứa nhiều gen

III.  Lĩnh vực Y học
Khoa học Y học là lĩnh vực đã đạt được rất nhiều thành tựu quan trọng có liên quan đến việc tìm hiểu khả năng đặc biệt của con người. Tuy nhiên, trong phạm vi bài này sẽ chỉ đề cập đến một vài thành tựu nổi bật mà tác giả cho là có ý nghĩa lớn trong vấn đề nghiên cứu tiềm năng con người, đó là thành tựu về “Giải mã Gene”, “Cấy tế bào gốc” và  “Phát hiện về cơ chế đảo chiều tế bào”.
3.1. Thành tựu về giải mã Gene
Năm 2006, truyền thông thế giới đã công bố một thông tin quan trọng: 
Sau 10 năm làm việc, một nhóm khoa học quốc tế đã hoàn tất việc giải mã toàn bộ gen con người. Đây được xem là một trong những công trình nghiên cứu quan trọng nhất của thế kỷ vì thành công này mở ra một kỷ nguyên mới trong nỗ lực chinh phục bệnh tật con người.
Theo ngành sinh học phân tử, đơn vị sinh học cơ bản  trong một con người là tế bào. Cơ thể con người được cấu tạo bởi hàng trăm nghìn tỉ tế bào với những nhiệm vụ khác nhau.
Mặc dù các tế bào có thể khác nhau về chức năng và thời gian sống, tất cả chúng đều có cấu trúc giống nhau: trong mỗi tế bào đều có một nhân (nucleus) nằm chính giữa. Mỗi nhân, trung bình có khoảng tỉ chất liệu DNA (Deoxyribo-Nucleic Acid). Gen thực chất là một mảng DNA [5, 6]. Gen có chức năng gửi các tín hiệu hóa học đi đến tất cả các nơi trong cơ thể. Những tín hiệu này có chứa đầy đủ các thông tin, các chỉ thị cụ thể cho các cơ quan trong cơ thể phải hoạt động ra sao. Việc tìm hiểu số lượng gen cũng như cơ cấu tổ chức của gen trong cơ thể con người được coi thành tựu cực kỳ quan trọng của y sinh học.

3.2. Điều trị bệnh bằng phương pháp ghép tế bào gốc
Tế bào gốc là những tế bào tiền thân có khả năng tự tăng sinh, biệt hóa thành nhiều loại tế bào, các mô, các cơ quan khác nhau của cơ thể, có thể thay thế cho các tế bào bị mất đi do già và chết tự nhiên, hoặc do bệnh lý.
Một trong những thành tựu của y học trong điều trị bệnh là ghép tế bào gốc vào những cơ quan bị bệnh để tế bào gốc phát triển thành các tế bào mạnh khỏe, hồi phục chức năng của cơ quan có bệnh lý [8,9].
“Trong khoảng  20 năm qua, Việt Nam đã thực hiện khoảng 350 ca ghép tế bào gốc các loại .
Tại Nhật, các năm gần đây, trung bình mỗi năm có 3.500 ca được điều trị bằng ghép tế bào gốc, trong đó 47% các trường hợp ghép là tế bào gốc máu cuống rốn. Tỷ lệ thành công trong ứng dụng ghép tế bào gốc điều trị bệnh về máu khoảng 70%”, theo TS Trần Ngọc Quế, Phó Trung tâm TBG Viện Huyết học - Truyền máu T.W [10]
3.3.  Phát hiện đột phá về cơ chế đảo chiều tế bào:
Nhà khoa học Anh GS John B.Gurdon và nhà khoa học Nhật GS Shinya Yamanaka đã cùng nhận chung Giải thưởng Nobel Y học 2012 về cơ chế đảo chiều tế bào trưởng thành → thành tế bào gốc vạn năng [7] .
Phát hiện này được đánh giá là đã tạo ra một cuộc cách mạng cho nhận thức về cơ chế phát triển của tế bào cũng như các cơ quan trong cơ thể động vật.
Tính đột phá ở chỗ: Tất cả mọi sinh vật, như con người, đều được phát triển từ tế bào trứng đã thụ tinh. Những ngày đầu tiên, phôi thai chỉ chứa toàn tế bào gốc, chưa trưởng thành. Mỗi tế bào này đều có khả năng phát triển thành mọi dạng tế bào cần thiết để hình thành các cơ quan trong cơ thể người. Chúng được gọi là tế bào gốc vạn năng. Khi phôi thai phát triển hơn, mỗi tế bào gốc vạn năng sẽ được chuyên môn hóa để thực hiện một sứ mệnh riêng, tạo thành các cơ quan khác nhau trong cơ thể người.
Trước đây, người ta tin rằng hành trình từ tế bào gốc trở thành tế bào chuyên biệthành trình một chiều. Người ta cũng cho rằng tế bào chỉ có thể thay đổi từ chưa trưởng thành thành trưởng thành chứ không thể từ trưởng thành được “lập trình lại”, quay về chưa trưởng thành, để trở thành tế bào gốc vạn năng.
3.4. Bình luận thứ hai
Y học là lĩnh vực khoa học gắn liền với con người.
Khả năng đặc biệt của con người, trước hết cũng có thể được nhận biết thông qua các chỉ số y sinh học như trong một số đề tài sơ khai tìm hiểu về những con người có khả năng đặc biệt trong gần hai chục năm qua mà chúng ta đã biết.
Tuy nhiên , y học hiện đại và những thành tựu mới đây của y học có liên quan đến khả năng đặc biệt của con người có thể được xem xét ở hai phương diện sau:
a) Vai trò giám định những khả năng đặc biệt của con người:
- Giám định khả năng của các nhà ngoại cảm trong việc tìm hài cốt liệt sỹ thất lạc
Dựa trên thành tựu về giải mã gene giúp ta khẳng định hài cốt đã tìm được là chắc chắn đúng  khi kết quả giám định ADN là chính xác.
- Đánh giá hiệu quả chữa bệnh bằng khả năng đặc biệt nhờ việc đối chiếu các số liệu y sinh, bệnh lý của người bệnh trước và sau khi có tác động của nhà ngoại cảm. 
b) Nhận thức để lý giải cơ chế một số hiện tượng chữa lành bệnh mà “khoa học chưa giải thích được” xuất hiện trên thế giới và trong nước thời gian qua.
Nhiều trường hợp chữa lành bệnh không theo các phương thức y học truyền thống đã được xác nhận trên thế giới cũng như ở nước ta đặt ra cho khoa học những câu hỏi mà cho đến nay chưa có câu trả lời.
Trong giai đoạn 1949-1959 xuất hiện Hiện tượng Bruno Groning ở Đức. Nhiều bệnh nhân thuộc các loại bệnh khác nhau như bại liệt, khiếm thị (mù), khiếm thính (điếc) và nhiều bệnh mạn tính khác đã được phục hồi chức năng ngay sau khi có tác động truyền năng lượng của Bruno Groning- một người Đức có khả năng đặc biệt. Theo sự tường trình của Bruno Groning thì Ông không chữa bệnh, ông chỉ là người thu nhận nguồn năng lượng trị liệu heilstrom từ vũ trụ (mà ông coi là từ đấng tối cao – GOD [18]) rồi chuyển giao cho người bệnh [11]. Ngày nay phương thức trị liệu này vẫn tiếp tục tồn tại không chỉ ở Đức mà còn ở nhiều nơi trên thế giới, được duy trì bởi các hội Thân hữu mang tên Ông.
Ở Việt Nam, một số người có khả năng đặc biệt cũng có thể tác động lên người bệnh dưới hình thức này hay hình thức khác, trực tiếp hay gián tiếp, từ xa để làm cho lành bệnh, trong đó có những trường hợp mà bệnh viện đã bó tay. Bác Lê Quang Ngọc ở Câu lạc bộ Năng lượng sinh học Xuân Mai (*) là người đã giúp cho một số người được lành bệnh theo phương pháp tương tự.
Dưới ánh sáng của các thành tựu điều trị bệnh bằng cấy tế bào gốc và phát hiện về cơ chế đảo chiều tế bào có thể đưa ra một hướng lý giải cho các hiện tượng chữa lành bệnh nói ở trên là do kết quả của việc “lập trình lại” để làm hồi sinh các tế bào gốc ở các cơ quan có bệnh nhờ tác động của nguồn năng lượng trị liệu đặc biệt từ bên ngoài.
Cơ sở để có thể đặt niềm tin vào sự tồn tại của các nguồn năng lượng trị liệu từ  Vũ trụ sẽ được đề cập đến ở phần tiếp theo, trong lĩnh vực Khoa học Vũ trụ.

IV. Lĩnh vực Khoa học Vũ trụ
Khoa học vũ trụ là lĩnh vực mà loài người đã quan tâm từ rất xa xưa, đã bỏ nhiều công sức tìm hiểu, nghiên cứu. Cho đến nay con người đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, đã vươn ra khỏi sức hút của trái đất, đã đặt chân lên mặt trăng, đã đưa con tầu đổ bộ lên sao hỏa, dùng kính thiên văn Hubble đặt ngoài vũ trụ để quan sát về các hệ thiên hà, các hố đen v.v . Nhưng thực ra đây vẫn là lĩnh vực còn nhiều bí ẩn nhất. Trong phần này sẽ trình bầy một số thành tựu  cùng với một vài khía cạnh Nghiên cứu và Giả thiết có liên quan đến việc làm sáng tỏ về khả năng đặc biệt của con người.
4.1. Sóng hấp dẫn trong vũ trụ
Sự tồn tại của sóng hấp dẫn được Albert Einstein tiên đoán từ 1916 trên cơ sở Thuyết Tương đối tổng quát của ông. Đó là những dao động của không - thời gian phát sinh do sự gia tốc của các vật thể có khối lượng và năng lượng.
Theo thuyết tương đối, một vật có khối lượng tồn tại trong không gian sẽ làm cho không-thời gian bị cong đi và tạo ra trường hấp dẫn xung quanh. Khối lượng càng lớn thì độ cong không-thời gian càng lớn. Khi vật thể chuyển động có gia tốc sẽ làm cho độ cong này thay đổi có gia tốc và phát ra sóng hấp dẫn lan truyền từ vật thể ra bên ngoài với tốc độ bằng tốc độ ánh sáng. Vì không tương tác với vật chất nên sóng không bị cản trở khi di chuyển. Đó là điểm đặc biệt về sóng hấp dẫn.

                                               (a)                                    (b)
Hình 8. Minh họa về sóng hấp dẫn : (a) Không gian bị uốn cong; (b) Sóng hấp dẫn

4.2. Trạm quan sát sóng hấp dẫn LIGO và các sự kiện phát hiện sóng hấp dẫn
Cách đây 22 năm (năm 1994) , các nhà khoa học Mỹ bắt đầu xây dựng hệ thống quan sát sóng hấp dẫn theo nguyên lý giao thoa kế dùng tia Laser, có tên là LIGO để thăm dò sóng hấp dẫn mà theo lý thuyết là có nhưng chưa có phương tiện để phát hiện. Hệ thống gồm 2 trạm đặt cách nhau khoảng 3000 km tại 2 bang Washington và Louisiana (Hoa kỳ).
Trạm gồm 2 nhánh đường ống vuông góc nhau tạo thành hình chữ L. Mỗi nhánh ống dài khoảng 4 km và được đặt cao khoảng 1 mét trên mặt đất. Công trình lớn và đầy tốn kém này có mục đích cuối cùng là khám phá ra thêm bằng chứng về thuyết tương đối tổng quát của Einstein.
 Ngày 14/9/2015 lần đầu tiên trạm đã phát hiện một sóng hấp dẫn đi tới Trái Đất nhưng chưa công bố.
Năm 2016 các nhà vật lý của hệ thống LIGO đã hai lần công bố phát hiện những gợn sóng trong cấu trúc không gian được hình thành từ chuyển động của vụ va chạm giữa hai hố đen cách đây hơn một tỷ năm. Lần thứ nhất, ngày 1/2/2016 và lần thứ hai, ngày 15/6/2016 [12, 13].
Việc tìm ra bằng chứng về sóng hấp dẫn chính là sự khẳng định cho một trong những tiên đoán quan trọng của thuyết tương đối của Einstein, điều đã thay đổi cách nhìn nhận của nhân loại về không gian và thời gian. 

 Hình 9. Trạm đo sóng hấp dẫn bằng tia Laser giao thoa LIGO tại Livingston, Louisiana 

4.3. Năng lượng tối
Năng lượng tối đang trở thành trọng tâm trong các cuộc tranh luận liên quan đến chủ đề vũ trụ học của thế kỷ 21. Các nhà khoa học trên thế giới đang nỗ lực hết mình để củng cố lý thuyết, phát minh công nghệ nhằm làm sáng tỏ một trong những câu hỏi hóc búa nhất của khoa học về Năng lượng tối.
Năng lượng tối được giả thuyết như là một dạng của năng lượng và tạo ra áp suất âm. Thuyết tương đối tổng quát của Einstein chỉ ra rằng, áp suất âm này có tác dụng nhưng ngược chiều với lực hấp dẫn ở thang đo khoảng cách lớn. Chính vì vậy nó là nguyên nhân gia tăng sự giãn nở của vũ trụ, một hiện tượng mà thiên văn đã quan sát thấy. Năng lượng tối được cho là có ở mọi nơi và choán đầy vũ trụ, ước đoán chiếm tới khoảng 70% năng lượng của toàn vũ trụ [14,15].
Cho đến nay các nhà khoa học chưa có được phương tiện nào để đo và xác minh về dạng năng lượng này mặc dù tiên đoán của lý thuyết là chắc chắn phải có.  
Sự kiện thu được sóng hấp dẫn mà Einstein đã tiên đoán cách đây 100 năm, nay  trở thành hiện thực cũng là sự kiện giúp tăng thêm lòng tin cho sự tồn tại của năng lượng tối mà một ngày nào đó khoa học sẽ tìm được bằng chứng để xác nhận.

4.4. Vật chất tối
Vật chất tối là thuật ngữ chỉ một loại vật chất được giả thiết là tồn tại trong vũ trụ nhưng chưa thành phần. Loại vật chất này không phát xạ hay phản xạ các bức xạ điện từ để ta có thể quan sát được bằng kính thiên văn hay các thiết bị đo đạc hiện có. Tuy nhiên, con người có thể nhận ra nó vì những ảnh hưởng hấp dẫn của nó đối với các vật thể khác trong vũ trụ.
Dựa trên hiểu biết hiện nay về cấu trúc vũ trụ lớn, cũng như các lý thuyết được chấp nhận về vụ nổ Big bang, các nhà khoa học ước đoán rằng vật chất tối là thành phần chính của vũ trụ. Theo số liệu của Encyclopaedia Britannica năm 2010 thì vật chất tối chiếm tới 23%  còn các vật chất thông thường 4,6%. Phần còn lại là thuộc về năng lượng tối chiếm tới 72%. [16, 17].
Hình 10. Ước lượng tỷ lệ các thành phần của vũ trụ, theo bách khoa toàn thư Britanica 2010

4.5. Bình luận thứ ba   
a)  Con người với các nguồn thông tin
Cho đến nay, những hiểu biết của con người về vũ trụ còn rất ít ỏi và nhiều câu hỏi rất cơ bản về vũ trụ còn chưa được giải đáp.
Con người đang sống trong một môi trường đầy bí ẩn của vũ trụ cùng với các vật chất tốinăng lượng tối mà ta chưa biết có những gì chứa đựng trong đó, những gì đã, đang và sẽ diễn ra trong đó, những gì đã, đang và sẽ tác động lên con người. Phải chăng ở đây cũng bao hàm cả “thế giới vô hình” mà con người đang còn rất mơ hồ.
Bên cạnh những vật chất tối và năng lượng tối của vũ trụ mà khoa học chưa xác minh được thì có những thứ vật chất do chính con người tạo ra trong “thế giới hữu hình”  này bằng công nghệ mà con người đã làm chủ nhưng con người cũng không nhận biết được bằng các giác quan bình thường của mình, chẳng hạn như sóng điện từ ở dải tần số radio.
Thế giới của hành tinh trái đất mà con người đang sống hàng ngày là một thế giới tràn ngập sóng điện từ, trong đó một số đến từ vũ trụ (ánh sáng mặt trời, các bức xạ từ các nguồn ngoài vũ trụ...) còn lại là các sóng ở dải tần số radio do nhân tạo, đến từ các đài phát thanh, đài truyền hình, các trạm viễn thông, các vệ tinh viễn thông, vệ tinh truyền hình DTH (Direct To Home), các vệ tinh của hệ thống dẫn đường toàn cầu GPS (Global Position System), các sóng đến từ các thiết bị vô tuyến diện hẹp (WLAN) như Bluetooth, Wi Fi, Wi Max v.v. Năng lượng của những sóng điện từ này chứa đầy ắp các thông tin mà con người có thể nhận biết, khai thác và trao đổi lẫn nhau thông qua các thiết bị điện tử cá nhân như máy tính, điện thoại di động v.v. với công cụ Internet được sử dụng trong đó. Với Intrenet, con người có thể truy cập thông tin từ bất cứ nơi nào trên thế giới, còn kho dữ liệu kể cả của cá nhân được lưu giữ ở một nơi nào đó trên “mạng” mà ta không cần biết, tuy không để trong các thiết bị riêng của mình nhưng cần đến là có ngay.
Trở lại với con người nhưng xét trong mối liên quan với vũ trụ, nghĩa là con người của thế giới ngày nay nhưng tồn tại đồng thời trong môi trường của những vật chất tối / năng lượng tối.
Tác giả cho rằng vật chất tối / năng lượng tối cũng mang trong mình nhiều thông tin mà loài người chưa tiếp cận được. Qua nghiên cứu thực tiễn về những “người có khả năng đặc biệt” cho thấy họ có những giác quan đặc biệt như giao tiếp được với những “đối tượng”trong ‘thế giới vô hình”, biết được những thông tin về những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ đối với một con người, đôi khi đối với cả một đất nước và dự báo được những điều sẽ xảy ra trong tương lai. Có rất nhiều ví dụ thực tế đáng tin cậy về những hiện tượng này mà một trong số đó là việc Bruno Groning – một nhà ngoại cảm Đức đã tiên đoán về thời gian xảy ra thế chiến thứ hai và kết quả sau đó là nước Đức bị chia làm hai với đường gianh giới được tiên đoán giống như đã xảy ra sau này [11]. Phải chăng trong khối năng lượng tối khổng lồ của vũ trụ có chứa đựng những thông tin về những gì đã và sẽ xảy ra đối với mỗi con người, mỗi đất nước, giống như một “Chương trình” đã vạch sẵn và những “người có khả năng đặc biệt” là người “được trang bị” những giác quan đặc biệt (tương tự như con người được trang bị Internet) để có thể tiếp cận các nguồn thông tin này.
b) “Bản thiết kế “ đối với mỗi con người
Theo triết học phương đông, mỗi con người được sinh ra với những dữ liệu ban đầu như năm - tháng, ngày - giờ, đều có liên quan đến một “Bản thiết kế tổng thể” mà thuật ngữ gọi là “lá số tử vi”. Ở phạm vi đơn giản hơn thì những thông tin của “bản thiết kế” được thể hiện qua những đường nét trên lòng bàn tay, những dấu vân tay v.v.  “Bản thiết kế tổng thể” này không chứa đựng những chi tiết về cấu trúc con người, nhưng cho biết những thông tin mang tính khái quát, cơ bản về tính cách và những sự kiện chính của con người trong cuộc sống.
Còn “Bản thiết kế chi tiết” về con người thì nằm ở đâu. Có những lý do để phán đoán rằng “Bản thiết kế ” này nằm ở đâu đó trong miền năng lượng tối của vũ trụ.
Trong quá trình phát triển của mỗi con người, sự ảnh hưởng ca môi trường và những tác động từ nhiều phía đã làm thay đổi một số chi tiết của “Bản thiết kế ”, đưa đến các loại bệnh tật.
Nhiều “người có khả năng đặc biệt” mà một trong số đó đã được trích dẫn là nhà ngoại cảm Đức Bruno Groning [11] trong những năm 1949-1959  đã thể hiện việc chữa lành bệnh cho nhiều bệnh nhân, kể cả nhiều bệnh mạn tính hoặc thuộc loại nan y mà y học chính thống đã bó tay nhờ việc chuyển tiếp dòng năng lượng trị liệu nhận được từ vũ trụ cho bệnh nhân.
Dưới ánh sáng của các thành tựu điều trị bệnh bằng cấy ghép tế bào gốc, sự phát hiện về cơ chế đảo chiều tế bào đã trình bầy ở Bình luận thứ hai, sự lưu giữ thông tin về “bn thiết kế chi tiết” trong miền năng lượng tối nêu ở trên đưa đến sự lý giải về một số hiện tượng chữa lành bệnh phi chính thống, được thực hiện thông qua các nhà ngoại cảm là kết quả của việc chuyển tiếp dòng năng lượng từ miền năng lượng tối để “tái lập trình” tế bào [7], làm phục hồi  các tế bào ở các cơ quan có bệnh lý và khôi phục lại “bản thiết kế gốc” như trong “hồ sơ”  được lưu giữ.


Tài liệu tham khảo
1. Lynn Schroeder và Sheila Ostrander: Psychic Discoveries Behind the Iron Curtain
2. Kirlian-Photography.com
3. Innovation Technologies and Energy Medicine: Resonant Field Imaging website
4. Ian L. Pykett, Ph.D and others :  Principles of Nuclear Magnetic Resonance Imaging
5. GS Nguyễn Văn Tuấn, Viện Y khoa Garvan, Sydney : Giải mã Gen (báo Người lao động 14/8/2006)
6.http://ghr.nlm.nih.gov (US National Library of Medicine website): Genetics Home Reference
   2012 for the discovery that mature cells can be reprogrammed to become pluripotent
8. http://stemcells.nih.gov (US National Institutes of health website): Induced pluripotent stem cells (iPSCs)   
9. https://vi.wikipedia.org: Tế bào gốc
10.https://www.nihbt.org.vn/te-bao-goc/ (Website của Viện huyết học TW): Ghép Tế bào gốc-
     Một thập kỷ đột phá vì sự sống người bệnh. 
11. TS Y khoa Matthias Kamp :  Bruno Groning - Cuộc cách mạng trong Y học  (tài liệu y học
    về chữa bệnh bằng tinh thần)
13. www.scientificamerican.com/ : The-discovery-of-gravitational wave
14. http://science.nasa.gov/astrophysics (NASA website) : what-is-dark-energy
15. https://tusach.thuvienkhoahoc.com/wiki : Năng lượng tối
16.Britannica Publishing :A brief lesson on the gravitational effects of dark matter.
17.http://britannica.com/science/:  Dark-matter;
18. Gary E. Schwartz, Ph D. : The GOD Experiments – How science is discovering GOD in everything, including us. ATRIA books New York- London-Toronto-Sydney.




[1] GS TSKH, Chủ tịch Hội đồng Viện/Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Nghiên cứu và Ứng dụng tiềm năng con người

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét