Bài đăng trong kỷ yếu Hội thảo khoa học toàn quốc về Nghiên cứu và ứng dụng Khả năng đặc biệt của con người.
NHỮNG THÀNH TỰU
KHOA HỌC TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY CÓ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC GÓP PHẦN LÀM SÁNG TỎ
XUNG QUANH VẤN ĐỀ “KHẢ NĂNG ĐẶC BIỆT CỦA CON NGƯỜI”
Phan
Anh[1]
I. Đặt vấn đề
Khả năng đặc biệt
của con người là một phạm trù rộng, đa dạng, có liên quan đến
nhiều lĩnh vực khoa học.
Trong
nghiên cứu về khả năng đặc biệt của con người, thường
cách tiếp cận mà chúng ta hay sử dụng là theo phương pháp
thực chứng, nghĩa là dựa trên những quan sát thực tế rồi đưa ra kết luận, coi
như kết quả. Để giải thích cho những kết quả, khi
chưa có được những lý lẽ thỏa đáng người ta thường nói “cho đến nay
khoa học chưa giải thích được”. Điều đó có nghĩa Khoa học hiện đại chưa đạt tới
mức đủ để làm sáng tỏ trực tiếp và tường minh nhiều hiện tượng đặc biệt, trong đó có
khả năng đặc biệt của con người. Tuy nhiên, ở những
khía cạnh nào đó thì những thành tựu của khoa học tự nhiên nói chung, trong đó
có khoa học công nghệ nói riêng, cũng đã hoặc có thể góp phần nhỏ bé trực tiếp
hay gián tiếp giúp con người có những nhận thức để đánh giá về đối tượng nghiên
cứu.
Bài
viết này, trước hết điểm lại một số thành tựu khoa
học đã đạt được trước đây và giới thiệu một số thành tựu của khoa học hiện đại trong những lĩnh vực có
liên quan đến khả năng đặc biệt của con người. Tiếp theo là trình bầy những nhận thức và bình luận
của tác giả trong việc vận dụng những kiến thức khoa học đó để góp phần làm sáng tỏ một số khía cạnh nào đó trong số
những biểu hiện đa dạng có liên quan đến “khả năng đặc biệt của con người”.
II.
Lĩnh vực Khoa học Công nghệ
2.1. Sự phát hiện hào quang của con người
a) Hiệu ứng Lichtenberg và Phương pháp chụp hào quang Kirlian
Nhà khoa học Đức, GS Lichtenberg và Kỹ sư người
Nga, ông Semyon Kirlian ở những thời gian khác nhau và những
quốc gia khác nhau đã tình cờ phát hiện ra hiện tượng phát hào quang của người
và thực vật dưới tác động của một điện trường xoay chiều tần số cao. Hiệu ứng
này được gọi là hiệu ứng Lichtenberg hay hiệu ứng Kirlian.
Phương pháp
chụp hào quang do Kirlian đề xuất năm 1939 đã được một số nhà kỹ thuật sau nhiều
năm nghiên cứu đã phát triển thành các thiết bị , cho phép chụp ảnh hào quang
của người trong những trạng thái khác nhau về tinh thần: khi thiền định, khi
suy nghĩ vui, buồn v.v. [1,2].
Theo phương pháp này, đối tượng chụp (con người hay thực
vật) cần được nối với một điện cực của một nguồn điện cao tần có điện áp ở mức
độ an toàn. Hình ảnh hào quang được chụp bằng máy ảnh thông thường. Trong một số
trường hợp người ta có thể nhận biết hào quang bằng mắt thường khi điện trường
cao tần có biên độ đủ lớn
Hình 1. Thiết bị và phương pháp chụp hào quang con người
(a) Thiền định (b) Buồn rầu (c) Vui vẻ
Hình 2. Một vài hình ảnh hào quang của người chụp bằng thiết bị Kirlian
b) Phương pháp đo hào quang bằng Trường cộng hưởng ( Resonant Field Immaging )
Phương pháp
đo hào quang bằng Trường cộng hưởng được các nhà nghiên cứu công nghệ của công ty Innovation
Technologies Medicine của Mỹ thiết kế và chế tạo dựa trên nguyên lý khác hoàn
toàn với phương pháp của Kirlian. Theo nguyên lý này mỗi bộ phận của cơ thể con
người luôn phát ra các bức xạ dưới dạng bức xạ điện từ với các tần số khác nhau
tùy thuộc vào vị trí trên cơ thể và tùy theo trạng thái của đối tượng nghiên cứu.
Thiết bị đo hào quang chính là một máy đo tần số vô tuyến điện cầm tay cho phép
rà trên cơ thể đối tượng, thu nhận các bức xạ điện từ có tần số khác nhau thông
qua một anten cảm ứng. Các kết quả đo được chuyển vào máy tính lưu giữ và được
xử lý bằng một phần mềm chuyên dụng. Tổng hợp các kết quả đo tại các vị trí
khác nhau cho ta một hình ảnh về hào quang của đối tượng, được thể hiện trên
màn hình máy tính [3] . Đây có thể được coi như một thành tựu áp dụng Công nghệ Vô tuyến Điện tử kết hợp với Công nghệ thông tin trong
xử lý tín hiệu.
Thiết bị này có tên gọi là RFI, viết tắt của Resonant Field Immaging
Hình 3. Máy RFI dùng phương pháp đo tần số để thu thập số
liệu hào quang
Hình 4. (a) Hào
quang cơ thể (b) Hào quang não bộ
2.2. Phương pháp chụp dựa trên nguyên lý Cộng
hưởng từ hạt nhân
a) Hiệu ứng cộng hưởng
từ hạt nhân :
Hiệu ứng cộng
hưởng từ hạt nhân do 2 nhà khoa học
là Felix Block và Edward Purcell phát hiện năm 1946, có nội dung như sau:
Mỗi hạt
nhân nguyên tử trong môi trường vật chất đều mang một moment từ tạo
ra bởi sự xoay nội tại của nó. Ở trạng thái bình thường, các moment từ này
sắp xếp một cách ngẫu nhiên và từ trường của chúng triệt tiêu lẫn nhau. Khi có một từ trường tĩnh đủ mạnh tác động từ
bên ngoài, các moment từ sẽ được sắp xếp lại để có phương song song và cùng hướng
hoặc ngược hướng với từ trường ngoài. Khi ta cho một trường điện từ cao tần tác
động vào các moment từ nói trên, véc tơ của các moment từ sẽ bị lệch đi và đầu
mút véc tơ sẽ chuyển động, xoay đảo quanh hướng moment từ ban đầu. Khi ngừng
tác động của trường cao tần ngoài thì các véc tơ moment từ sẽ ngừng quay đảo và
trở lại hướng ban đầu. Quá trình trở về này sẽ giải phóng ra phần năng lượng đã
hấp thụ của trường cao tần lúc trước. Năng lượng được giải phóng này có dạng sóng vô tuyến điện.
b) Chụp cộng hưởng từ hạt nhân (MRI: Magnetic Resonance Imaging)
MRI
là kỹ thuật chụp cắt lớp cơ thể con người sử dụng hiệu ứng cộng hưởng từ hạt nhân nói ở trên. Nguyên tử
Hydrogen trong cơ thể dưới tác động từ trường và sóng vô tuyến điện,
hấp thụ và giải phóng năng lượng sóng vô tuyến.
Các mô cơ thể khác nhau sẽ hấp thụ và giải phóng năng lượng
khác nhau. Quá trình giải phóng năng lượng
được hệ thống vô tuyến thu nhận, xử lý, chuyển đổi thành các
tín hiệu hình ảnh nhờ công nghệ thông tin [4 ].
Chụp cộng hưởng từ hạt nhân là kỹ thuật hiện
đại, mang tính cách mạng kỹ thuật đối với y học. Ngày nay,
MRI được sử dụng rộng rãi bởi sự chính xác, an toàn, không xâm nhập và
không dùng tia X. Hình ảnh có độ phân giải cao, khảo sát đa mặt cắt, có khả năng tái tạo trong không gian 3 chiều.
Hình 5. Hình
ảnh chụp não bộ người Hình 6.
Máy chụp cộng hưởng từ hạt nhân
1. Trong hai thập niên vừa qua,
khoa học - công nghệ đã đạt nhiều thành tựu cực kỳ to lớn làm thay đổi bộ mặt của
toàn thế giới, trong đó phải kể đến Internet và Viễn thông mà cốt lõi trong đó là Công nghệ thông tin.
2. Cuộc cách mạng trong khoa học
công nghệ vẫn đang tiếp diễn với nhiều hứa hẹn, đặc biệt trong lĩnh vực Năng lượng, Giao thông với những nguyên lý mới mà kỳ vọng có thể trở thành hiện thực
trong vòng 10 đến 20 năm tới :
Về năng lượng: Sử dụng năng lượng sạch từ nguồn mặt trời.
Việc biến ánh sáng mặt trời thành
điện năng là điều hiện thực, pin mặt trời đã và đang có vai trò quan
trọng trong cuộc sống, nhưng việc lưu giữ để sử dụng
lâu dài nguồn
năng lượng này lại không phải dễ dàng. Khoa học
công nghệ sẽ biến năng
lượng mặt trời thành một dạng năng lượng hóa thạch để có thể lưu giữ và sử dụng lâu dài sau đó.
Về giao thông : Hyperloop là đề án về
hệ thống giao thông siêu tốc trên mặt đất.
Phương
tiện chuyên chở sẽ được di chuyển trong các ống giảm áp, trên đệm không khí, còn sức đẩy được tạo
ra bởi các động cơ cảm ứng và máy nén khí. Ý
tưởng trên đã được thử nghiệm thành công với vận tốc chuyển
động có thể đạt tới 1200 km/giờ.
Động cơ lượng tử là một nguyên
lý hoàn toàn mới, không dùng nhiên liệu truyền thống, có thể đạt tốc
độ tới 1000 Km/giây. Động cơ lượng tử còn được gọi
là động cơ phản hấp dẫn, có
tác động vô hiệu hóa trọng lực của các vật thể, thích
hợp cho các thiết bị trong ngành hàng không vũ trụ mà hình ảnh các đĩa bay của người ngoài hành tinh có thể lấy làm ví dụ.
3. Khoa học Công nghệ đã, đang
và hứa hẹn đạt được nhiều thành tựu to lớn phục vụ đời sống và sự phát triển nền
văn minh của nhân loại, tuy nhiên, những công nghệ có liên quan đến việc hỗ trợ
làm sáng tỏ khả năng đặc biệt của con người thì còn rất khiêm tốn :
- Sự phát hiện ra
hào quang con người với những biểu hiện khác nhau trong những trạng thái tâm hồn
và tư duy có thể giúp làm sáng tỏ sự khác biệt giữa những con người bình thường
và những người có khả năng đặc biệt, giữa trạng thái bình thường và trạng thái hoạt
động ngoại cảm của nhà ngoại cảm v.v .
- Việc đo hào quang
bằng thiết bị đo RFI cho ta biết về những sự khác biệt ở tầm
vĩ mô, ngoại vi của con người
còn chụp
cộng hưởng từ hạt nhân MRI cho ta biết về
những sự khác biệt ở tầm vi mô, về cấu trúc bên trong của con người.
4. Có thể nhận thấy rằng, trong
tương lai gần cũng như xa, Khoa học công nghệ chưa hứa hẹn đem lại cho chúng ta
những phương tiện mới nào để góp phần làm sáng tỏ hơn về những khả năng đặc biệt
của con người. Điều đó có nghĩa, Nghiên cứu về những khả năng đặc biệt của con
người cần phải được tiến hành theo những phương pháp riêng, phù hợp mà không thể
dựa vào những phương tiện sẵn có.
Hình 7. Gen
được cấu tạo từ DNA. Mỗi nhiễm sắc thể (chromosome) hàm chứa nhiều gen
III. Lĩnh vực Y học
Khoa học Y học là lĩnh vực đã đạt được rất nhiều thành tựu
quan trọng có liên quan đến việc tìm hiểu khả năng đặc biệt của con người. Tuy
nhiên, trong phạm vi bài này sẽ chỉ đề cập đến một vài thành tựu nổi bật mà tác
giả cho là có ý nghĩa lớn trong vấn đề nghiên cứu tiềm năng con người, đó là
thành tựu về “Giải mã Gene”, “Cấy tế bào gốc” và “Phát hiện về cơ chế đảo chiều tế bào”.
3.1. Thành tựu về giải mã Gene
Năm 2006,
truyền thông thế giới đã công bố một thông tin quan trọng:
“Sau 10 năm làm việc, một nhóm
khoa học quốc tế đã hoàn tất việc giải mã toàn bộ gen con người. Đây được xem
là một trong những công trình nghiên cứu quan trọng nhất của thế kỷ vì thành
công này mở ra một kỷ nguyên mới trong nỗ lực chinh phục bệnh tật con người”.
Theo ngành sinh học phân tử,
đơn vị sinh học cơ bản trong một con người
là tế bào. Cơ thể con người được cấu tạo bởi
hàng trăm nghìn tỉ tế bào với những
nhiệm vụ khác nhau.
Mặc
dù các tế bào có thể khác nhau về chức năng và thời gian sống,
tất cả chúng đều có cấu trúc giống nhau:
trong mỗi tế bào đều có một nhân (nucleus) nằm chính giữa. Mỗi nhân,
trung bình có khoảng tỉ chất liệu DNA (Deoxyribo-Nucleic
Acid).
Gen thực chất là một mảng DNA [5, 6]. Gen có chức năng gửi các tín hiệu
hóa học đi đến tất cả các nơi trong cơ thể. Những tín hiệu này có chứa đầy
đủ các thông tin, các chỉ thị cụ thể cho các cơ quan trong cơ thể phải hoạt động
ra sao. Việc tìm hiểu số lượng gen cũng như cơ cấu tổ chức của gen trong cơ thể
con người được coi là thành tựu cực kỳ quan
trọng
của y sinh học.
3.2. Điều trị bệnh bằng phương pháp ghép tế bào
gốc
Tế bào gốc là những tế bào tiền thân có khả năng tự tăng
sinh, biệt hóa thành nhiều loại tế bào, các mô, các cơ quan khác nhau của cơ thể, có thể thay thế cho các tế bào bị mất đi do già và chết tự
nhiên, hoặc do bệnh lý.
Một trong những thành tựu của y
học trong điều trị bệnh là ghép tế bào gốc vào những cơ quan bị bệnh để tế bào
gốc phát triển thành các tế bào mạnh khỏe, hồi phục chức năng của cơ quan có bệnh
lý [8,9].
“Trong khoảng 20 năm qua, Việt
Nam đã thực hiện khoảng 350 ca ghép tế bào gốc các loại .
Tại
Nhật, các năm gần đây, trung bình mỗi năm có 3.500 ca được điều trị bằng ghép tế bào gốc, trong đó 47% các trường hợp ghép là tế bào gốc máu cuống rốn. Tỷ lệ thành công trong
ứng dụng ghép tế bào gốc điều trị bệnh về máu khoảng 70%”, theo TS Trần Ngọc Quế, Phó GĐ Trung tâm TBG Viện Huyết học - Truyền máu T.W [10]
3.3. Phát
hiện đột phá về cơ chế đảo chiều tế bào:
Nhà khoa học Anh GS John
B.Gurdon và nhà khoa học Nhật GS Shinya Yamanaka đã cùng
nhận chung Giải
thưởng Nobel Y học 2012 về cơ chế đảo chiều tế
bào trưởng thành →
thành tế bào gốc vạn năng [7] .
Phát hiện này được đánh giá là đã tạo ra một cuộc cách mạng
cho nhận thức về cơ chế phát triển của tế bào cũng như các cơ quan trong cơ thể
động vật.
Tính đột phá ở chỗ: Tất
cả mọi sinh vật, như con người, đều được phát
triển từ tế bào trứng đã thụ tinh. Những ngày đầu tiên, phôi thai chỉ chứa toàn
tế bào gốc, chưa trưởng thành. Mỗi tế bào này đều có khả năng phát triển thành
mọi dạng tế bào cần thiết để hình thành các cơ quan trong cơ thể người. Chúng
được gọi là tế bào gốc vạn năng. Khi phôi thai
phát triển hơn, mỗi tế bào gốc vạn năng sẽ được chuyên môn hóa để thực hiện một sứ mệnh riêng, tạo
thành các cơ quan khác nhau trong cơ thể người.
Trước
đây, người ta tin rằng hành trình từ tế
bào gốc trở thành tế bào chuyên biệt
là hành trình một chiều. Người ta cũng
cho rằng tế bào chỉ có thể thay đổi từ chưa
trưởng thành thành trưởng thành
chứ không thể từ trưởng thành được “lập trình lại”, quay về chưa trưởng thành, để trở thành tế bào gốc vạn năng.
3.4. Bình luận thứ hai:
Y học là lĩnh vực khoa học gắn
liền với con người.
Khả năng đặc biệt của con người,
trước hết cũng có thể được nhận biết thông qua các chỉ số y sinh học như trong
một số đề tài sơ khai tìm hiểu về những con người có khả năng đặc biệt trong gần
hai chục năm qua mà chúng ta đã biết.
Tuy nhiên , y học hiện đại và
những thành tựu mới đây của y học có liên quan đến khả năng đặc biệt của con
người có thể được xem xét ở hai phương diện sau:
a) Vai trò giám định những khả năng đặc biệt của
con người:
- Giám định khả
năng của các nhà ngoại cảm trong việc tìm hài cốt liệt sỹ thất lạc
Dựa trên thành tựu về giải mã gene giúp ta khẳng định hài
cốt đã tìm được là chắc chắn đúng khi kết quả giám định ADN là chính xác.
- Đánh giá hiệu quả
chữa bệnh bằng khả năng đặc biệt nhờ việc đối chiếu các số liệu y sinh, bệnh
lý của người bệnh trước và sau khi có tác động của nhà ngoại cảm.
b) Nhận
thức để lý giải cơ chế một số hiện tượng chữa lành bệnh mà “khoa học
chưa giải thích được” xuất hiện trên thế giới và trong nước thời gian qua.
Nhiều trường hợp chữa lành bệnh
không theo các phương thức y học truyền thống đã được xác nhận trên thế giới
cũng như ở nước ta đặt ra cho khoa học những câu hỏi mà cho đến nay chưa có câu
trả lời.
Trong giai đoạn 1949-1959 xuất
hiện Hiện tượng Bruno Groning ở Đức. Nhiều bệnh nhân thuộc các loại bệnh khác
nhau như bại liệt, khiếm thị (mù), khiếm thính (điếc) và nhiều bệnh mạn tính
khác đã được phục hồi chức năng ngay sau khi có tác động truyền năng lượng của
Bruno Groning- một người Đức có khả năng đặc biệt. Theo sự tường trình của
Bruno Groning thì Ông không chữa bệnh, ông chỉ là người thu nhận nguồn năng lượng
trị liệu heilstrom từ vũ trụ (mà ông coi là từ đấng tối cao – GOD [18]) rồi
chuyển giao cho người bệnh [11]. Ngày nay phương thức trị liệu này vẫn tiếp tục
tồn tại không chỉ ở Đức mà còn ở nhiều nơi trên thế giới, được duy trì bởi các
hội Thân
hữu mang tên Ông.
Ở Việt Nam, một số người có khả
năng đặc biệt cũng có thể tác động lên người bệnh dưới hình thức này hay hình
thức khác, trực tiếp hay gián tiếp, từ xa để làm cho lành bệnh, trong đó có những
trường hợp mà bệnh viện đã bó tay. Bác Lê Quang Ngọc ở Câu lạc bộ Năng lượng
sinh học Xuân Mai (*) là người đã giúp cho một số người được lành bệnh theo
phương pháp tương tự.
Dưới ánh sáng của các thành tựu
điều trị bệnh bằng cấy tế bào gốc và phát hiện về cơ chế đảo chiều tế bào có thể
đưa ra một hướng lý giải cho các hiện tượng chữa lành bệnh nói ở trên là do kết
quả của việc “lập trình lại” để làm hồi sinh các tế bào gốc ở các cơ quan có bệnh
nhờ tác động của nguồn năng lượng trị liệu đặc biệt từ bên ngoài.
Cơ sở để có thể đặt niềm tin
vào sự tồn tại của các nguồn năng lượng trị liệu từ Vũ trụ sẽ được đề cập đến ở phần tiếp theo,
trong lĩnh vực Khoa học Vũ trụ.
IV. Lĩnh vực Khoa học Vũ trụ
Khoa học vũ trụ là lĩnh vực mà loài
người đã quan tâm từ rất xa xưa, đã bỏ nhiều công sức tìm hiểu, nghiên cứu. Cho
đến nay con người đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, đã vươn ra khỏi sức hút
của trái đất, đã đặt chân lên mặt trăng, đã đưa con tầu đổ bộ lên sao hỏa, dùng
kính thiên văn Hubble đặt ngoài vũ trụ để quan sát về các hệ
thiên hà, các hố đen v.v . Nhưng thực ra đây vẫn là lĩnh vực còn nhiều bí ẩn nhất.
Trong phần này sẽ trình bầy một số thành tựu
cùng với một vài khía cạnh Nghiên cứu và Giả thiết có liên quan đến việc
làm sáng tỏ về khả năng đặc biệt của con người.
4.1. Sóng
hấp dẫn trong vũ trụ
Sự
tồn tại của sóng hấp dẫn được Albert
Einstein tiên đoán từ 1916
trên cơ sở Thuyết
Tương đối tổng quát của ông. Đó là
những dao động của không -
thời gian phát sinh do sự gia tốc của các vật thể có
khối lượng và năng lượng.
Theo thuyết tương đối, một vật có khối lượng tồn tại trong không gian sẽ
làm cho không-thời gian bị cong đi và tạo ra trường hấp dẫn xung quanh. Khối lượng
càng lớn thì độ cong không-thời gian càng lớn. Khi vật thể chuyển động có gia tốc
sẽ làm cho độ cong này thay đổi có gia tốc và phát ra sóng hấp dẫn lan truyền từ
vật thể ra bên ngoài với tốc độ bằng tốc độ ánh sáng. Vì không tương tác với vật chất nên sóng không bị cản trở khi di chuyển. Đó
là điểm đặc biệt về sóng hấp dẫn.
(a) (b)
Hình 8. Minh họa về sóng hấp dẫn : (a) Không
gian bị uốn cong; (b) Sóng hấp dẫn
4.2. Trạm quan sát sóng hấp dẫn LIGO và các sự kiện phát hiện sóng
hấp dẫn
Cách đây 22 năm (năm 1994) , các nhà
khoa học Mỹ bắt
đầu xây dựng hệ thống quan sát sóng hấp dẫn theo nguyên lý giao
thoa kế dùng tia Laser, có tên là LIGO để thăm dò sóng hấp dẫn mà theo lý thuyết là có nhưng
chưa có phương tiện để phát hiện. Hệ thống gồm
2 trạm đặt cách nhau khoảng 3000 km tại 2 bang Washington và Louisiana (Hoa kỳ).
Trạm gồm 2 nhánh đường ống
vuông góc nhau tạo thành hình chữ L. Mỗi nhánh
ống
dài khoảng 4 km và được đặt cao khoảng 1 mét trên mặt đất. Công trình lớn và đầy tốn kém này có mục đích cuối cùng là khám phá ra thêm bằng chứng về thuyết tương đối tổng quát của
Einstein.
Ngày 14/9/2015 lần đầu tiên trạm đã phát hiện một sóng hấp dẫn đi tới Trái Đất nhưng chưa công bố.
Năm 2016 các nhà vật lý của hệ thống LIGO
đã hai lần công bố phát hiện những gợn sóng trong cấu trúc
không gian được hình thành từ chuyển động của vụ va chạm giữa hai hố đen cách
đây hơn một tỷ năm. Lần thứ nhất, ngày 1/2/2016 và lần thứ hai, ngày
15/6/2016 [12, 13].
Việc tìm ra bằng chứng
về sóng hấp dẫn chính là sự khẳng định cho một trong những
tiên đoán quan trọng của thuyết tương đối của Einstein, điều đã thay đổi cách
nhìn nhận của nhân loại về không gian và thời gian.
Hình 9. Trạm đo sóng hấp dẫn bằng tia Laser giao thoa LIGO tại Livingston, Louisiana
4.3. Năng lượng tối
Năng lượng tối đang trở thành trọng tâm trong các cuộc tranh luận liên quan
đến chủ đề vũ trụ học của thế
kỷ 21. Các nhà khoa học trên thế giới đang nỗ lực hết mình để củng cố lý thuyết, phát
minh công nghệ nhằm làm sáng tỏ một trong những
câu hỏi hóc búa nhất của khoa học về Năng lượng tối.
Năng
lượng tối được giả thuyết như là một dạng của năng lượng và tạo ra áp suất âm.
Thuyết tương đối tổng quát của Einstein chỉ ra rằng, áp suất âm này có
tác dụng nhưng ngược chiều với lực hấp dẫn ở thang đo khoảng cách lớn. Chính vì
vậy nó là nguyên nhân gia tăng sự giãn nở của
vũ trụ, một hiện tượng mà thiên văn đã quan sát thấy. Năng lượng tối
được cho là có ở mọi nơi và choán đầy vũ trụ, ước đoán chiếm tới khoảng 70% năng lượng của toàn vũ trụ
[14,15].
Cho đến nay các nhà khoa học
chưa có được phương tiện nào để đo và xác minh về dạng năng lượng này mặc dù
tiên đoán của lý thuyết là chắc chắn phải có.
Sự kiện thu được sóng hấp dẫn mà
Einstein đã tiên đoán cách đây 100 năm, nay trở thành hiện thực cũng là sự kiện giúp tăng
thêm lòng tin cho sự tồn tại của năng lượng
tối mà một ngày nào đó khoa học sẽ tìm được bằng chứng để xác nhận.
4.4. Vật chất tối
Vật chất tối là thuật ngữ chỉ một loại vật chất được giả
thiết là tồn tại trong vũ trụ
nhưng chưa rõ thành
phần. Loại vật
chất này không phát xạ hay phản xạ các bức xạ điện từ để ta có thể quan sát được bằng kính thiên văn hay các thiết
bị đo đạc hiện có. Tuy nhiên, con người có thể nhận ra nó vì những ảnh
hưởng hấp dẫn của nó đối với các vật thể khác trong vũ trụ.
Dựa trên hiểu biết hiện nay về cấu trúc vũ trụ lớn, cũng như các lý thuyết được
chấp nhận về vụ nổ Big bang, các nhà khoa học ước đoán rằng vật
chất tối là thành phần chính của vũ trụ. Theo số liệu của Encyclopaedia Britannica năm
2010 thì vật chất tối chiếm tới 23% còn các vật chất thông thường 4,6%. Phần còn
lại là thuộc về năng lượng tối chiếm
tới 72%. [16, 17].
Hình 10.
Ước lượng tỷ lệ các thành
phần của vũ trụ, theo bách khoa toàn thư Britanica 2010
4.5. Bình luận thứ ba
a)
Con người với các nguồn thông tin
Cho đến nay, những hiểu biết của con người về vũ trụ còn
rất ít ỏi và nhiều câu hỏi rất cơ bản về vũ trụ còn chưa được giải đáp.
Con người đang sống trong một môi trường đầy bí ẩn của vũ
trụ cùng với các vật chất tối và năng lượng tối mà ta chưa biết có những
gì chứa đựng trong đó, những gì đã, đang và sẽ diễn ra trong đó, những gì đã,
đang và sẽ tác động lên con người. Phải chăng ở đây cũng bao hàm cả “thế giới
vô hình” mà con người đang còn rất mơ hồ.
Bên cạnh những vật chất tối và năng lượng tối của vũ trụ
mà khoa học chưa xác minh được thì có những thứ vật chất do chính con người tạo
ra trong “thế giới hữu hình” này bằng công nghệ mà con người đã làm chủ nhưng
con người cũng không nhận biết được bằng các giác quan bình thường của mình,
chẳng hạn như sóng điện từ ở dải tần số radio.
Thế giới của hành tinh trái đất mà con người đang sống
hàng ngày là một thế giới tràn ngập sóng điện từ, trong đó một số đến từ vũ trụ
(ánh sáng mặt trời, các bức xạ từ các nguồn ngoài vũ trụ...) còn lại là các
sóng ở dải tần số radio do nhân tạo, đến từ các đài phát thanh, đài truyền
hình, các trạm viễn thông, các vệ tinh viễn thông, vệ tinh truyền hình DTH
(Direct To Home), các vệ tinh của hệ thống dẫn đường toàn cầu GPS (Global
Position System), các sóng đến từ các thiết bị vô tuyến diện hẹp (WLAN) như Bluetooth, Wi Fi, Wi Max v.v. Năng lượng
của những sóng điện từ này chứa đầy ắp các thông tin mà con người có thể nhận
biết, khai thác và trao đổi lẫn nhau thông qua các thiết bị điện tử cá nhân như máy tính, điện thoại di động v.v. với công cụ Internet
được sử dụng trong đó. Với Intrenet, con người có thể truy cập thông tin từ bất
cứ nơi nào trên thế giới, còn kho dữ liệu kể cả của cá nhân được lưu giữ ở một nơi
nào đó trên “mạng” mà ta không cần biết, tuy không để trong các thiết bị riêng
của mình nhưng cần đến là có ngay.
Trở lại với con người nhưng xét trong mối liên quan với
vũ trụ, nghĩa là con người của thế giới ngày nay nhưng tồn tại đồng thời trong môi
trường của những vật chất tối / năng lượng tối.
Tác giả cho rằng vật
chất tối / năng lượng tối cũng mang trong mình nhiều thông tin mà loài
người chưa tiếp cận được. Qua nghiên cứu thực tiễn về những “người có khả năng
đặc biệt” cho thấy họ có những giác quan đặc biệt như giao tiếp được với những “đối
tượng”trong ‘thế giới vô hình”, biết được những thông tin về những sự kiện đã
xảy ra trong quá khứ đối với một con người, đôi khi đối với cả một đất nước và
dự báo được những điều sẽ xảy ra trong tương lai. Có rất nhiều ví dụ thực tế
đáng tin cậy về những hiện tượng này mà một trong số đó là việc Bruno Groning –
một nhà ngoại cảm Đức đã tiên đoán về thời gian xảy ra thế chiến thứ hai và kết
quả sau đó là nước Đức bị chia làm hai với đường gianh giới được tiên đoán
giống như đã xảy ra sau này [11]. Phải chăng trong khối năng lượng tối khổng lồ của vũ trụ có chứa đựng những thông tin về những
gì đã và sẽ xảy ra đối với mỗi con người, mỗi đất nước, giống như một “Chương
trình” đã vạch sẵn và những “người có khả năng đặc biệt” là người “được trang
bị” những giác quan đặc biệt (tương tự như con người được trang bị Internet) để
có thể tiếp cận các nguồn thông tin này.
b) “Bản thiết kế “ đối với mỗi con người
Theo triết học phương đông, mỗi
con người được sinh ra với những dữ liệu ban đầu như năm - tháng, ngày - giờ, đều có liên quan đến một “Bản thiết kế tổng
thể” mà thuật ngữ gọi là “lá số tử vi”. Ở phạm vi đơn giản hơn thì những thông
tin của “bản thiết kế” được thể hiện qua những đường nét trên lòng bàn tay, những
dấu vân tay v.v. “Bản thiết kế tổng thể”
này không chứa đựng những chi tiết về cấu trúc con người, nhưng cho biết những thông
tin mang tính khái quát, cơ bản về tính cách và những sự kiện chính của con người
trong cuộc sống.
Còn “Bản thiết kế chi tiết” về
con người thì nằm ở đâu. Có những lý do để phán đoán rằng “Bản thiết kế ” này nằm
ở đâu đó trong miền năng lượng tối của
vũ trụ.
Trong quá trình phát triển của
mỗi con người, sự ảnh hưởng của môi trường và những
tác động từ nhiều phía đã làm thay đổi một số chi tiết của “Bản thiết kế ”, đưa
đến các loại bệnh tật.
Nhiều “người có khả năng đặc biệt” mà một trong số đó đã được trích dẫn là
nhà ngoại cảm Đức Bruno Groning [11] trong những năm 1949-1959 đã thể hiện việc chữa lành bệnh cho nhiều bệnh
nhân, kể cả nhiều bệnh mạn tính hoặc thuộc loại nan y mà y học chính thống đã
bó tay nhờ việc chuyển tiếp dòng năng lượng trị liệu nhận được từ vũ trụ cho
bệnh nhân.
Dưới ánh sáng của các thành tựu
điều trị bệnh bằng cấy ghép tế bào gốc, sự phát hiện về cơ chế đảo chiều tế bào
đã trình bầy ở Bình luận thứ hai, sự
lưu giữ thông tin về “bản thiết kế chi tiết” trong miền năng lượng tối nêu ở trên
đưa đến sự lý giải về một số hiện tượng chữa lành bệnh phi chính thống, được thực
hiện thông qua các nhà ngoại cảm là kết quả của việc chuyển tiếp dòng năng lượng
từ miền năng lượng tối để “tái lập
trình” tế bào [7], làm phục hồi các tế
bào ở các cơ quan có bệnh lý và khôi phục lại “bản thiết kế gốc” như trong “hồ
sơ” được lưu giữ.
Tài liệu
tham khảo
1. Lynn Schroeder
và Sheila Ostrander: Psychic Discoveries Behind the Iron Curtain
2. Kirlian-Photography.com
3. Innovation
Technologies and Energy Medicine: Resonant Field Imaging website
4. Ian L. Pykett,
Ph.D and others : Principles of Nuclear Magnetic Resonance
Imaging
5. GS Nguyễn
Văn Tuấn, Viện Y khoa Garvan, Sydney : Giải mã Gen (báo Người lao động 14/8/2006)
2012 for
the discovery that mature cells can be reprogrammed to become pluripotent
8. http://stemcells.nih.gov (US National Institutes of health website):
Induced pluripotent stem cells
(iPSCs)
9.
https://vi.wikipedia.org: Tế bào gốc
Một
thập kỷ đột phá vì sự sống người bệnh.
11. TS Y khoa
Matthias Kamp : Bruno Groning - Cuộc cách mạng trong Y học (tài liệu y học
về chữa bệnh bằng tinh thần)
16.Britannica Publishing :A brief lesson on the gravitational effects of dark matter.
17.http://britannica.com/science/: Dark-matter;
18.
Gary E.
Schwartz, Ph D. : The GOD Experiments – How
science is discovering GOD in everything,
including us. ATRIA books New York- London-Toronto-Sydney.
[1]
GS TSKH, Chủ tịch Hội đồng Viện/Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Nghiên cứu và Ứng
dụng tiềm năng con người
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét