TÍN NGƯỠNG SA - MAN TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
VỚI NHỮNG
ĐẶC TRƯNG LIÊN
QUAN
ĐẾN
KHẢ NĂNG TIỀM ẨN
CỦA CON NGƯỜI
(Bài
1)
Phan Đăng Nhật[1]
(GS Phan Đăng Nhật có 2 bài (bài 1 và bài 2); vốn là
một được tách ra, nên liên quan chặt chẽ với nhau. Đề nghị độc giả đọc bài 1,
trước khi đọc bài 2)
I. Mở đầu-thuật ngữ
1. Tín ngưỡng saman (shamannis)
Có người gọi đây là sa-man giáo. Rành mạch hơn thì nên chỉ rõ đây là tín ngưỡng,
chưa phải là tôn giáo, vì vậy, chúng tôi dùng thuật ngữ tín ngưỡng sa-man, hoặc
viết tắt là saman.
Thuật ngữ saman
có cội nguồn từ người Nga, tộc người Tông-gu (tongouse). Có thể từ này bắt nguồn
từ samana, tiếng Pali do ảnh hưởng của
Ấn Độ đối với vùng Xibêri. Saman trở thành một thuật ngữ quốc tế, người ta
không dịch ra các ngôn ngữ quốc gia.
Nhà khoa học nổi tiếng thế giới về saman, Mircéa Eliade, đã đưa ra những thuộc tính của sa
man. Ông rất nhấn mạnh đặc điểm của cơ chế kỹ thuật saman là “extase” nghĩa là “xuất thần - nhập
hoá”. Ông coi đây là thuộc tính cơ bản nhất của saman chỉ cần nó đủ cho một định
nghĩa: “Định nghĩa đầu tiên của hiện tượng phức hợp này và có lẽ là định nghĩa ít mạo hiểm là: Tín ngưỡng saman = kỹ thuật xuất thần
- nhập hoá”[1]. Extase trong tiếng Pháp còn có nghĩa là “thần trí hôn
mê”, hoặc “ngây ngất”. Theo định nghĩa của Mircea, hai nghĩa vừa nêu không thật
sát hợp với kỹ thuật của sa man. Ông nhấn mạnh sự khác biệt cơ chế xuất thần nhập
hoá của saman là, linh hồn của người xuất thần rời bỏ thể xác để đi lên trời hoặc
xuống địa ngục: “Người ta không thể so sánh bất kỳ một người xuất thần - nhập
hoá nào với một saman; ông ta là nhà chuyên nghiệp nhập đồng, trong đó linh hồn
của ông coi như rời bỏ thể xác để thực hiện một cuộc ra đi lên Trời hoặc xuống
địa ngục”[1]. Vậy ngây ngất, đê
mê là trạng thái bên ngoài, là biểu hiện của mọi thứ say (say rượu, nha phiến, ma tuý,.. ) không phải
là bản chất của hiện tượng xuất thần - nhập hoá của saman.
Cũng theo Mircea
Eliade, một điều cần phân biệt nữa là ông/bà saman có quan hệ liên thông với
vong linh: “Cũng có một sự phân biệt nữa, nói chung cần thiết xác định mối quan
hệ của sa man với vong hồn. Khắp nơi trong thế giới nguyên thuỷ và hiện đại, có
những cá nhân tin chắc rằng đã giữ mối quan hệ với vong linh, (theo hai kiểu),
hoặc là họ bị nhập (possédé)/bị ám; hoặc là họ làm chủ vong”[1]
Từ điển bách
khoa Việt Nam (tập 3)
cũng nhấn mạnh hai đặc điểm của saman là xuất thần- nhập hoá và giao tiếp với
vong linh: “Saman giáo (shamanisme) là một loại hình tôn giáo cho rằng, một người
nào đó, do bẩm sinh hay sau một thay đổi cơ bản về cơ thể (ốm thập tử nhất
sinh) hoặc về tâm lý tinh thần (stress), có khả năng giao tiếp với các siêu
linh, các vong hồn bằng cách thoát hồn khỏi xác; hoặc thần thánh, ma quỷ nhập
vào mình, để cầu xin một điều gì. Biện pháp của saman giáo là phải tự đưa mình
chuyển từ thể trạng bình thường sang thể trạng cuồng loạn, hôn mê bằng tiếng
hát, tiếng đàn, hương khói, đặc biệt bằng nhảy múa điên loạn”[1]
Từ điển tôn giáo nhấn mạnh hai đặc
điểm của cơ chế saman là xuất thần và giao tiếp với vong hồn: “Thôi miên xuất
thần làm cho saman khác hẳn những người tinh thông ma thuật và tôn giáo khác;
saman không thể là saman nếu không có cảm giác thôi miên xuất thần, và saman thực
hiện tất cả chức năng của mình trong lúc xuất thần. Saman cũng được các hồn ma
giúp đỡ và hướng dẫn”[1]
Nhà
khoa học X.A.Tocarep có nhận định: “Đa
số các nhà nghiên cứu đều thấy rõ nét điển hình của Saman giáo là việc áp dụng
các phương pháp giao tiếp xuất thần nhập
hóa (chữ dùng của người dịch Lê Thế Thép) với giới siêu nhiên và việc tách
những người có khả năng giao tiếp này. Đặc điểm nổi bật này là đặc trưng của
Saman giáo, tới mức các nhà nghiên cứu rất dễ nhận ra nghi lễ và tín ngưỡng
saman, miêu tả và phân loại đúng, dù ở nước nào, dân tộc nào mà họ gặp”[1]
Như vậy là, hai nhà khoa học ở hai
chân trời ý thức hệ đều gặp nhau ở đăc điểm của sa man là: xuất thần nhập hóa
và liên thông với thế giới siêu linh. Điều này càng chứng tỏ đặc diểm trên là
chân lý.
Có nhà khoa học nhấn mạnh tính lâu đời,
tính phổ quát khắp hành tinh và vai trò trung gian với thế giới bên kia của
saman: “Sự thực hành saman, về thời gian, lên đến, ít nhất, một số nghìn năm.
Những điểm giống nhau nổi bật giữa các đề tài và thực hành sa man trên tất cả
hành tinh chúng ta, gợi ý điều này: đây là một hiện tượng vô cùng lâu đời và một
số cấu trúc của tư tưởng loài người là phổ quát. Ngày nay, chúng ta gặp saman ở
khắp nơi, sa man vận hành hoạt động cơ bản theo cùng một cung cách và dựa vào
cùng những kỹ thuât như nhau, đó là sự trung gian với thế giới bên kia.”
(Peter
T.Furst, Giám đốc ban Nhân học, thuộc Đai học Quốc gia tại New York)
Tóm lại, việc thực hành
tín ngưỡng saman coi trọng hàng đầu là cơ chế xuất thần
- nhập hoá, bằng cơ chế này, thầy saman dẫn hồn mình đi đến thế giới vong linh trên
trời, dưới đất và trên mặt đất. Và ông/bà saman phải có mối quan hệ liên thông
với vong linh.
Ngây ngất là
đúng, nhưng nếu chỉ có ngây ngất, thăng hoa mà không có hai đặc điểm trên thì
không thể gọi là xuất thần - nhập hoá của saman.
2. Xuất thần-nhập hoá.
Sau
nhiều năm nghiên cứu , thể nghiệm và quan sát, cuối cùng chúng tôi đồng ý tiếp
nhận lựa chọn thuật ngữ xuất thần - nhập
hoá (dịch extase, extatique) [1]
để chỉ cơ chế kỹ thuật hàng đầu của saman; với
quan niệm rằng trong hành xử thực tế không/ hoặc khó tách rời hoàn toàn
hai khâu xuất thần và nhập thần, có lúc xuất thần bao gồm cả nhập thần, đúng
như bà Nguyễn Thuỵ Loan đã viết: “Khái niệm “xuất hồn” ở đây được dùng để chỉ
những trường hợp “linh hồn” của một người thoát khỏi thể xác để thâm nhập thế
giới siêu thực, mà không tiếp nhận “hồn” của ai khác vào thể xác. Còn việc “nhập
hồn” trên thực tế bao hàm đồng thời cả việc “xuất hồn” của
bản thân và tiếp nhận “hồn” (khái niệm tạm dùng chung cho các lực lượng siêu
nhiên bao gồm cả các đấng thần linh, hồn người chết, ma quỷ) vào thể xác của
mình để thực hiện một hành động không bình thường hoặc xuất chúng…”[1]
3. Phương pháp đặc biệt
Tìm
mộ có phương pháp thông thường và phương pháp đặc biệt. Thông thường là dùng
các khả năng của người thường như: xúc giác, thị giác, thính giác, tưởng tượng.
trí nhớ, phán đoán,…Phương pháp đặc biệt như lâu nay vẫn gọi: ngoại cảm, cận
tâm lý.,…Ngoài ra, người ta còn tìm mộ bằng sinh học định vị và phương pháp cảm
xạ: “ Việc tìm mồ mả thất lạc hiện nay, dù ở Việt Nam hay ở Pháp…con người vẫn
sử dụng phương pháp ngoại cảm-sinh học định vị và phương pháp cảm xạ vật lý”[1]
Chúng tôi không
muốn sa đà vào việc tranh luận các phạm trù, khái niệm trên nên cứ gọi một cách
không khoa học lắm là “phương pháp đặc biệt”.
II.Tín ngưỡng saman trên thế giới - Một số nhận định,
đánh giá về saman
Từ xưa đến nay
có vô số tài liệu sách vở về saman, chúng tôi chỉ dám đưa ra một số đặc điểm của
tín ngưỡng saman như sau:
II.1. Saman là một tín ngưỡng rất phổ biến, tồn tại khắp
các châu lục.
Cho đến nay,
chúng ta biết đến sự tồn tại của saman ở:
-
Trung Á và Bắc Á (người Tatar, người Bouriate, người Kirghize, người Ougrien,
người Lapon, người Ostyak, người Yurak, người Samoỳede, người Yakoute, người
Dolgan, người Tongouse, người Orotchi, người Koryak, người Tchouktche.)
-
Bắc và Nam Mỹ (người Esquimaux, người Paviotso, người Achumawi)
-
Đông Nam Á và châu Đại Dương (người Việt và các dân tộc thiểu số Việt Nam, người
Semang, người Sakai, người Jakun, người Andamane, người Nicobar, ở Mã lai, ở
Sumatra, ở Borneo, người Dayak, người Mélanesy, người Polynesy)
-
Người Ấn –Âu (người Đức cổ, người Hy Lạp cổ, người Scythe, người Caucase, người
Ấn Độ cổ, các tộc người thiểu số Ấn Độ)
-
Tây Tạng, Trung Quốc và Viễn Đông (người Lôlô. người Moso, người Trung Hoa, Người
Triều Tiên, người Nhật Bản)
II.2. Tín ngưỡng saman là tín ngưỡng vào loại rất cổ và
có sức sống mạnh mẽ cho đến thời hiện đại
Từ điển tôn giáo nhấn mạnh lịch
sử lâu đời của saman: “Saman được mô tả là “nghề nghiệp lâu đời nhất thế giới”,
chứng cứ khảo cổ học cho thấy kỹ thuật saman đã có ít nhất là 20 000 năm”.
Các nhà khoa học
xếp tín ngưỡng saman vào loại tín ngưỡng nguyên thuỷ.
“Saman giáo có thể
là cổ nhất ở
cả phương Đông lẫn phương Tây, là tôn giáo phổ biến nhất. Nó thường đồng tồn tại
với những hình thức khác nhau của pháp thuật,
tín ngưỡng và tôn giáo; …” [1]
Ở Triều Tiên,
saman được coi là một bộ phận của văn hoá đồ đồng và tồn tại trước thế kỷ thứ
10 (trước CN). “Nói
chung, người ta thừa nhận rằng Saman giáo tồn tại ở bán đảo Triều Tiên trước thế
kỷ X (trước C.N,), và tài liệu khảo cổ học cho rằng nó là một bộ phận của nền văn hoá đồ đồng” [1]
“Ở Trung Quốc,
trong khoảng một thế kỷ nay, trải qua biết bao cuộc biến động chính trị, mỗi lần
như thế, thầy saman (Trung Quốc gọi là sư công) đều bị đả kích; trang bị, y phục
đều bị đốt phá. Thế nhưng vẫn không tiêu diệt được niềm tin của nhân dân đối với
tìn ngưỡng này: “Hoạt động saman của dân tộc ít người nam Trung Quốc thì ở Quảng
Tây gọi là “sư công khiêu thần” hay dân gian gọi là “khiêu quỷ”…Tế tự tôn giáo
dân gian này trải qua hàng ngàn năm, đã thành một bộ phận không thể thiếu, của
văn hoá dân gian. Trong hoàn cảnh lâu dài, quanh co phức tạp, loại tâm lý dân tộc
này đã trở thành niềm tin sâu đậm, không chút nghi ngờ trong đầu óc một bộ phận
nhân dân. Mặc dù. gần trăm năm nay, xã hội nhiều biến đổi, niềm tin đó vẫn
không thể nào thay đổi hoàn toàn để thích ứng với thời đại mới. Hiện tượng kỳ lạ
này khiến cho nhiều nhà triết học, dân tục học (văn hoá dân gian) không thể nào
hiểu được”[1]
III.Vai trò của
saman trong xã hội đương đại
III.1. Ở Hàn quốc
Ở Hàn Quốc, người
ta đánh giá cao vai trò của saman trong thời kỳ hiện đại, nên họ đề xuất một
chiến lược phát huy và đổi mới saman gồm 6 điểm:
-Nâng cao trình độ nghệ thuật của saman làm cho nó trở thành trau chuốt, nhằm phù hợp với các tầng
lớp khán giả trong cả nước.
- Đưa saman vào hoạt động thương mại, cung cấp sự tiêu khiển cho công chúng
tiêu thụ, nâng cao quan hệ cộng đồng và nâng cao quan hệ mật thiết của họ với
thế giới thần linh.
- Làm cho saman trở thành một bảo tàng nhân tạo và môt
báo cáo về nhân học, bảo tồn hồ sơ và đối tượng saman cho các học giả và toàn
thể công chúng nghiên cứu.
- Làm cho saman là một hội tụ liên tôn giáo. Sự mở ra cho hội tụ liên tôn
giáo là chung trong truyền thống văn hoá Hàn Quốc , đặc biệt là Phật giáo. Nho
giáo và Đạo giáo với saman, bất luận cả trong giai đoạn có mâu thuẫn giữa các tôn
giáo.
- Phát triển hệ thống mạng hỗ trợ cho saman. Một chiến dịch làm đổi mới saman , cần có sự phát triển
mạng lưới hỗ trợ, nhằm xúc tiến sức sống của saman về phương diện niềm tin và
thực hành.
-Quốc tế hoá saman Hàn quốc. Sự lựa chọn này đòi hỏi phải
phát hiện một cơ sở chung giữa văn hoá
Hàn và các hình thức văn hoá saman khác, nhằm xây dựng một hệ thống quốc tế , để
hỗ trợ lẫn nhau và san sẻ cho nhau từ bên trong.[1]
III.2. Ở Mỹ
Nhiều
nhà khoa học thế giới đã công nhận vai trò đẩy lùi bệnh tật của shamanism và kiến
nghị học tập, lợi dụng truyền thống cổ xưa đó để nâng cao sức khỏe cộng đồng:
“Shamanism là một truyền thống tri thức có hàng 20.000 năm tuổi. Trong đó tràn
ngập các hình thức của y học và tâm lý trị liệu. Thầy saman là những người chữa
bệnh đầu tiên, họ chịu trách nhiệm về sức khỏe và cuộc sống tốt đẹp của cộng đồng”[1]
…..“Phần kết luận, Viloldo and Kripper so sánh phong cách y tế phương Tây chúng
ta với phong cách đó của phương pháp chữa bệnh (của) những thầy saman và người
làm tâm linh và những cách khảo sát của họ, mà trong đó chúng ta có thể lợi dụng
truyền thống cổ xưa của pháp thuật và chữa bệnh nói trên, và bằng cách đó,
chúng ta học để chữa bệnh cho chúng ta và nhiều người khác[1]
Đây
là ý kiến của những nhà khoa học của nước
Mỹ văn minh, hiện đại. Vậy thì, chúng ta lại càng phải học tập, lợi dụng truyền
thống saman gấp nhiều lần, nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân.
Chúng
ta đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ, sự bùng nổ, sự “trỗi lên lại” của tín
ngưỡng saman trên các miền của đất nước ta, mà các sự kiện chúng tôi lưu ý là:
điện thờ tư gia, ngoại cảm tìm mộ và ngoại cảm chữa bệnh[1].
Điều đó diễn ra không riêng gì ở Việt Nam, mà ở các nước trên thế giới cũng như
vậy. Sau đây là ý kiến của hai chuyên gia:
-
TS. PGS Alberto Viloldo, ở Đại học Quốc gia San Francisco.
-
TS, Stanley Kripper, chủ tịch Hội Cận tâm lý, “một trong những nhà nghiên cứu cận
tâm lý nổi tiếng nhất trong thế giới ngày nay” (theo sách Healing States)
Họ
đã khẳng định: saman đã trỗi lên lại trong thế giới hiện đại ở nhiều lĩnh vực:
tôn giáo, tâm linh, chữa bệnh,…:
“Saman, một trong
những truyền thống cổ xưa nhất của nhân loại, nay đã trỗi lên lại, ở thời kỳ xã
hội hiện đại, trong tôn giáo, tâm linh, thực hành chữa bệnh và các truyền thống
ý thức. Mặc dầu các chi tiết kỹ thuật của cơ sở và bản chất (của) saman, thường
là mơ hồ và khó hiểu, vẫn có một sự thừa nhận rộng rãi rằng, saman là một kiểu
loại nguyên thủy của chữa bệnh và phát triển con người. Những điều này vẫn tiếp
tục thích ứng với thế giới ngày nay”[1]…
IV. Tín ngưỡng saman ở các dân tộc/tộc người Việt Nam
với cơ chế xuất thần -nhập hoá
IV.1. Lên đồng hầu bóng -
người Kinh
“Xuất phát từ quan niệm rộng rãi nhất, coi
saman là hình thức thoát hồn hay nhập hồn,
tức là tình huống mà các ông Đồng, bà Đồng tự đưa mình vào một trạng thái ngây ngất (ecstasy) để từ đó tiếp nhận sức mạnh, năng lượng mang tính
siêu nhiên thông qua các vị thần Tam phủ Tứ phủ nhập vào, nhằm đạt tới ước vọng
sức khoẻ và may mắn. Nếu như vậy, thì Hầu bóng-Lên đồng của Đạo Mẫu là một
trong vô vàn các hình thức saman của các dân tộc trên thế giới mà ngày nay
trong nhiều dân tộc nước ta còn giữ lại được và đóng góp vào kho tàng văn hoá
saman nhân loại một hình thức sinh hoạt
tín ngưỡng-văn hoá này” [1]
Hầu
bóng là nghi lễ trung tâm của tín ngưỡng thờ Mẫu (còn gọi là đạo Mẫu). Trong một
buổi hầu, thường là nhiều vị Thánh nhập rồi xuất, lại tiếp vị khác nhập /xuất.
Mỗi lần nhập xuất như vậy gọi là một giá đồng, với quan niệm thân xác của con đồng
là cái giá đỡ để cho Thánh làm việc nhà Thánh.
Sau
khi chuẩn bị lễ vật và nghi thức, ông/bà đồng ngồi trước bàn thờ khói hương
nghi ngút. Hầu dâng phủ diện cho con đồng. “Khi ông đồng và bà đồng phủ khăn
lên đầu thì họ được coi như người đã chết” (Ngô Đức Thịnh)[1]
, nói cách khác hồn của họ đã thoát xác để sẵn sàng cho hồn Thánh thay thế và
hoạt động. Như vậy, ngay trong nhập đã phải có xuất (và sau khi Thánh thăng lập
tức phải có nhập hồn người, không như thế sẽ mất vía, lạc vía). Đó là lý do
chúng tôi chọn cụm từ “xuất thần-nhập hoá”.
Các
vị Thánh giáng đều đặn là: Quan lớn đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Ngũ; chầu Đệ nhị,
chầu Lục; ông Hoàng Bơ, Hoàng Bảy, Hoàng Mười; cô Bơ Thoải, cô bé Thượng Ngàn,
cậu Bơ,…
Có hai loại lên đồng:
- Loại
cấm khẩu, chỉ múa, phát lộc mà không nói,
- Loại khai khẩu,
truyền phán nhiều, có khi hát múa.
Một số nhân vật được thờ biểu đạt qua bức
tranh Tứ Phủ
Công Đồng:
IV.2. Mo-người Mường
Người
Mường có rất nhiều loại Mo. Ở đây chỉ bàn đến Mo Lên/Mo Lên Trời. Người ta hát
kể/diễn xướng Mo Lên trong đám ma, trước quan tài, trong đó còn quàn thi hài
người chết. Người hát-kể Mo là ông mo/thầy mo. Nhiệm vụ của ông là bằng xuất hồn
-nhập hoá dẫn hồn người chết cùng vía của đoàn người gồng gánh lễ vật (gọi là tứa)
lên Trời để thực hiện các việc chính: Đối kiện, Xin tuông, Chuộc sổ. Ngoài ra ,
đây còn là một cuộc du ngoạn thú vị, qua nhiều cảnh vật kỳ thú như Chùa Chiền Hang Hao, Đá Tầm Tè, Cây đa Đồng
Chìu, Chợ Bông-Chợ Hoa,…Có hoàn thành các nhiệm vụ chính ở mường Trời, hồn
mới đủ điều kiện về sống yên ổn với ông bà tổ tiên ở mường ma, để cho “đẹp bên
ma, lành bên người”. Nếu không, hồn sẽ là những ma xấu, khổ sở đói rách và lang
thang, quấy
phá gia đình, làng xóm.
Để
tổ chức đoàn đi, ông mo phải xuất hồn/vía người sống trong đoàn Tứa , đi theo
ông (và khi về phải nhập hồn trở lại) Ông mo vừa là người diễn xướng vừa là người
chỉ huy và dẫn đầu đoàn. Luôn luôn chúng ta nghe điệp khúc miêu tả đoàn người/hồn:
Ông mo mường xăm
xăm đi trước
Ngài (hồn ma)bước
rón theo sau
Tứa khiêng theo
sau nhộn nhịp
Gánh theo đi nườm
nượp
Người như đàn bướm
bay
Lên phần phật
chân xống
Lên phần phần
chân áo
Cuộc
du hành sẽ thất bại nếu đoàn lạc đường, hồn không về được mường Ma và trở thành
ma xấu, như trên đã nói, và cũng nguy hiểm , nếu như vía (người sống) không nhập
được xác. Người lạc vía sẽ trở thành ngớ ngẩn, điên loạn, có khi chết. Ông Mo nếu
không cao tay, có khi cũng bị ma quật. Để có thế lực hộ thân và để bảo lãnh cho
các công việc vừa nêu, ông Mo phải có pháp thuật cao và còn phải tôn thờ một vị
thần hộ mệnh (thánh sư). Saman của các dân tộc nước ngoài cũng có vị thần này
được gọi là “những thần bảo mệnh hoặc trợ giúp thầy saman” (the shaman’s
guardian spirits or helpers). Vì vậy, khi làm đám, ông Mo phải đặt bàn thờ
thánh sư trước mặt và khấn nguyện sự phù trợ. Đồng thời ông phải có một túi
thiêng gọi là khụt (người Thái gọi là
khót, người Êđê, Jrai gọi là yang ktung) , trong túi có những vật
thiêng như răng thú rừng, lưỡi tầm sét, đá quý,…
Tóm
lại, nghi lễ mo Mường
trong đám tang là một cuộc xuất thần
-nhập hoá nhiều người. Trong đó ông Mo có nhiều trọng trách:
-
Tự
xuất thần -nhập hoá mình, lại phải xuất thần
và nhập hoá hoàn chỉnh cho đoàn tứa,
- Chỉ
đạo và dẫn đầu đoàn người và hồn người chết đi đúng đường lên mường Trời rồi trở
về trần gian,
-Tiếp
xúc giao dịch, có khi phải đấu tranh thuyết phục các nhân vật siêu nhiên trên
thế giới mường Trời.
Vậy ông Mo mường
là một thầy saman với đầy đủ tính chất và đặc điểm của nó.
IV.3. Mo -người Thái
Người
Thái cũng như nhiều dân tộc anh em khác, tin rằng khi người chết, hồn tách ra khỏi xác và vẫn tồn tại, vẫn có “cuộc
sống” riêng. Các hồn đó phải được ông mo chỉ lối dẫn đường để đi về với tổ tiên, cư ngụ đúng vị trí của từng
loại hồn, ở mường Trời. Như vậy, hồn sẽ “sống” bình yên, phù hộ cho con cháu.
Ngược lại, nếu không được đưa đường, hồn sẽ
tán loạn khắp nơi, biến thành những hồn ma xấu, lang thang, không ai thờ
cúng, gây hại cho xã hội và gia đình.
Nhiệm
vụ về phương diện tín ngưỡng của cúng dẫn hồn là đưa hồn đi đến nơi đến chốn để
đạt được hai phía “đẹp bên ma, lành bên người”.
Tuy
nhiên, việc dẫn hồn không đơn giản. Vì rằng, đường lên mường Trời xa xôi, cách
trở; hơn nữa, khác với các dân tộc anh em, trong lúc các dân tộc chỉ có một hồn,
người Thái lại có 80 hồn.
Vì
vậy, ông mo phải chỉ cho các hồn đúng nơi cư trú của từng hồn (hồn ngọn/hồn cuối),
công việc này đựơc gọi là rải hồn.
Cuối
cùng , qua muôn vàn gian truân khổ ải, nhờ sự hiểu biết và sự chỉ dẫn tận tình
của ông mo, các hồn đều được về đúng chỗ và hồn gốc về với tổ tiên ở Liên Pán,
nơi đó cuộc sống tuyệt đẹp, như ước mơ của loài người muôn đời nay:
Muốn
ăn cơm, gạo tự đến
Muốn ăn cá, cá tự lại
Hạt thóc to, phải lấy rìu bổ
Cọng rau lớn, phải lấy rìu chặt
Ăn no đủ ba ngày
Một
nhiệm vụ rất quan trọng nữa của ông mo là tập hợp và đưa trở lại trần những vía
đi tiễn hồn. Việc thu gom phải triệt để, không được để sót, nếu sót thì vía đó
bị lạc, chủ nhân của vía sẽ ốm đau, bệnh tật và ông mo có lỗi với các gia đình
thân chủ.
Để
làm những nhiệm vụ quan trọng trên đây, ông Mo Thái phải:
- Xuất
thần-nhập hoá để đi lên mường Trời,
- Phải
có khả năng tiếp xúc giao dịch với thế giới siêu linh,
- Phải
dẫn hồn người chết và đoàn vía người sống đi đúng đường,
- Phải
đưa vía người sống về và nhập hồn lại đầy đủ cho họ.
Ông là một thầy
saman tiêu biểu, đã làm những nhiệm vụ tiêu biểu của saman
IV.4. Mỡi-người Mường
Chức
năng của Mỡi là chữa ốm đau, cầu lành, cầu phúc.
Trình
tự của một lễ Mỡi chữa ốm đau gồm năm phần:
- Phần
thứ nhất. Lúc
này Thánh Mỡi chưa nhập. Người làm Mỡi khấn xin Thánh nhập vào họ.
- Phần
thứ hai. Lúc này Thánh đã nhập, người làm Mỡi xưng là Vua Cả, đi mời ma gây bệnh
về trước sập thờ để hưởng lễ.
- Phần
thứ ba. Người làm Mỡi , có Thánh nhập, nhân danh Thánh mời ma ăn trầu, hưởng cỗ,
yêu cầu ma trả lại vía cho người.
- Phần
thứ tư. Mỡi tiễn ma về nơi ở của chúng và dặn không bao giờ quấy rối vía người ốm này nữa.
- Phần
thứ năm. Dâng ăn cho vua Mỡi, các Thánh, các vị kem (chức việc bên ma Mỡi) và tổ
tiên người Mỡi.
Bốn
trong số năm phần của buổi lễ ông/bà Mỡi ở trong tình trạng xuất thần- nhập
hoá. Những vị vua thánh nhập vào Mỡi là vua cha Ngọc hoàng, Đức Mễ Wàng Pà, Đức
Ông Thánh Cả, ba Ông Thánh Hiền, ông Tề Thiên Đại Thánh.
Khi
nhập, Mỡi hát và nói trong trạng thái ngây ngất, thường là không biết gì. Lúc
đó họ trở thành vua Mỡi và xưng là vua Cả. Họ gọi người phụ lễ là wa con (hoa con), phụ lễ nam là wa wàng (hoa vàng), nữ là wa pạc (hoa bạc).
Tóm
lại, cơ chế xuất thần-
nhập hoá có vai trò quan trọng hàng đầu và chi phôí toàn bộ quá trình thực hành
tín ngưỡng Mỡi của người Mường. Ông/ bà Mỡi có khả năng liên thông với thế giới
âm gồm một bên là vua, thánh, bên kia là ma[1].
Mỡi là một hiện tượng tiêu biểu của sa man.
IV.5.Then- người Tày
Trong
nghi lễ Then có cả nhập hồn và xuất hồn.
Mở
đầu buổi lễ, ông/bà Then làm tiết mục mở đường hoặc chuộc binh để nhập Then.
Ông /bà Then định thần, trong tiếng đàn hát, tay xóc nhạc. Bỗng ông /bà rùng
mình. Đó là lúc hồn người thoát ra khỏi thể xác và hồn ma Then nhập vào. Hiện
tượng xuất thần-nhập hoá được thực hiện. Trong cả quá trình buổi lễ, tình trạng
tâm thần của ông/ bà Then vẫn như vậy, chỉ có khác là các nhân vật siêu linh
thay đổi vai. Ngọc hoàng và các thiên tướng nhà Trời kế tục nhau nhập đồng.
Thường
là Ngọc hoàng mở đầu. Ngài khai quang cho Then, cấp bổng lộc, rồi xóc nhạc ngựa
(coi như lên đường) và thăng. Tiếp theo là các Tướng Hiển (còn gọi là Tướng
Hoả thang), Tướng Hổ, Thánh Cá,…Tướng Hiển chủ sự về trừ ma , chữa bệnh,
thường nhập đồng dưới dạng dẫm lên đống lửa đang cháy. Tướng Hổ nhập vai con hổ, cào cấu và gào thét. Thánh Cá nhập đồng dưới dạng trẻ con, v.v…[1]
Quá
trình tiến hành nghi lễ, ông/bà Then có nhiệm vụ dẫn âm binh đi đến các cửa Tổ
tiên, Thành hoàng, Thổ thần, tổ nghề Then,
các Thiên tướng và Ngọc hoàng. Những lúc này , trong trạng thái xuất thần-nhập
hoá, xuất hồn người, nhập hồn ma Then, ông/bà Then tiếp xúc, giao thiệp với các
vị thần linh. Nên nhớ, trong các thao tác này, ông/bà Then không có giờ phút
nào được lơ là mà trở thành người thường (không xuất thần nhập hóa).
Tóm
lại, cơ chế xuất thần
-nhập hoá có vị trí quan trọng hàng đầu và chi phối việc thực hành nghi lễ Then
của người Tày, đúng như GS Ngô Đức Thịnh đã tổng kết: “Nghi lễ Then là một hình thức shaman giáo thể hiện qua việc nhập hồn và xuất hồn, trong đó
, nhập hồn các thần linh vào thân xác của các bà Then, ông Then là chủ yếu, để
cầu an, giải hạn, chữa bệnh, bói toán và để cấp sắc, nâng sắc cho bản thân các
bà Then, ông Then nữa”[1]
IV.6. Úa lếnh-người Hmông
Thầy
sa man người H’mông được gọi là chí lếnh= ông thầy cúng, việc thực hành nghi lễ
sa man được gọi là úa lếnh=làm cúng/cúng. Khi cúng, phần lớn là chữa bệnh, chí
lếnh chủ yếu là xuầt hồn đi khắp các nơi ở thế giới âm để tìm hồn ma ác đã làm
hại người ốm. Những nơi mà ông thường đến là:
-Đột
nhập vào ngôi nhà người ốm,
- Lặn
xuống thế giới dưới nước,
- Bao
vây khu ở cũ trước khi di cư.
- Lần
đường về nơi ở của tổ tiên,
- Đến
hang quỷ ăn thịt người và thùng nước mắt,…
Như
vậy, khi thầy saman trùm khăn, xuất hồn là lúc thầy đi vào thế giới của ma. Chỉ
có ông mới có khả năng giao tiếp với thế giới bên kia.
Tóm
lại, chí lềnh/thầy
saman người H’mông khi làm việc âm đã huy động hai khả năng đặc biệt là: xuất thần-nhập hoá và liên thông với các nhân
vật siêu linh.[1]
IV.7. Vijơu-người Raglai
Thầy
cúng ở người Raglai gọi là vijơu, có hai loại chính: cúng lên đồng (vijơu
pamõng) và cúng không lên đồng (vijơu cati). Chỉ có cúng lên đồng mới là đối tượng
nghiên cứu của bài này. Và ở đây, xin quy ước, khi nói vijơu có nghĩa là vijơu
pamõng.
Vào
lễ cúng, vijơu ngồi xếp bằng, đầu trùm khăn, thường là màu trắng, phủ xuống quá
vai, miệng ngậm ngải, tay cầm chiếc lá (thường là lá mít) tương trưng cho cái
quạt. Hỗ trợ cho vijơu có người phụ đồng (hulơu valàc). Ông này không xuất thần,
tâm thần tỉnh táo.
Nhiệm
vụ chính của vijơu là thực hiện một cuộc du hành, trong trạng tháí xuất thần-nhập
hoá, đến ngưỡng cửa của thế giới thần linh, rồi đến gốc khế thần, có gian trại
thần, giao tiếp với thần linh, lần lượt tìm hỏi các thần để biết căn nguyên dẫn
đến ốm đau, tai hoạ của thân chủ mình.
Các
thần thường được mời gọi là: Thần rơm rạ lúa gạo, Thần Trời, Thần Sấm, Thần đập
nước, Thần Rồng,…Thân mình vijơu thỉnh thoảng rung lên, hoặc là ông rung đùi,
huýt sáo. Phụ đồng/hulơu valàc nói lời phụ hoạ.
Có
lúc chiếc lá trên tay vijơu không phe phẩy (tức là không làm nhiệm vụ quạt) mà
lật đi lật lại, vijơu nhìn chăm chú vào đấy: ông đang xem sổ sách ở Thượng giới
để tìm hiểu số phận của thân chủ.
Một
công việc quan trọng nữa của vijơu là bắt các thần ác, thần phá hoại nhốt vào hộp
sắt thần, hộp bạc thần. Ông phải nhờ vào các vị thần lớn mới làm được việc trên.
Lúc này, người ta nghe ông phát ra những tiếng hú kéo dài.
Mặc
dầu khá vất vả, cuối cùng ông hoàn thành mọi công việc, chào chia tay để trở về trần gian. Ông rùng mình liên tiếp, lắc mạnh
người và giật mạnh khăn trùm đầu. Hồn người thường đã trở lại với vijơu.
Tóm
lại, vijơu pamõng là sa man của người Raglai. Trong khi thực
hành nghi lễ, ông đã thực sự xuất thần- nhập hoá, đi lên thượng giới, tiếp xúc
với các vị thần, tìm hiểu và cầu xin; đồng thời bắt giữ các ma xấu. Các việc này có mục đích chữa bệnh và điều
hoà các mâu thuẫn xã hội của thân chủ.[1]
IV.8. Pjâo-các tộc người Tây Nguyên
Hầu
hết các tộc người Tây Nguyên đều có saman, với các tên gọi tương tự như nhau:
người Jrai, Bahnar gọi là Pjâo, Êđê gọi là Mjâo, Mnông là Bujâu, người K’ho gọi
là Bơjơu, Churu là Pjơu… Xin quy ước một tên chung là Pjâo.
Pjâo
khác với những thầy cúng được nhân dân gọi là pô riu yang (ông khấn thần) hoặc
pô iâo yang (ông gọi thần). Các ông này chỉ biết khấn, mời gọi thần, khác với
pjâo, họ không có khả năng xuất thần-nhập
hoá.
Pjâo
thường làm các việc : tìm kẻ phạm tội (ví như ăn trộm) và chữa bệnh, phần lớn
là chữa bệnh.
Mở
đầu buổi lễ bao giờ cũng có thủ tục thỉnh cầu thần linh nhập vào pjâo. (Lưu ý, ở
đây không có khăn phủ diện; chỉ người Kinh, người Chăm và người Raglai mới dùng
loại khăn này) Ông ta thường khấn:
Bẻ hai lá đa, ba
lá sung
Cầu thần
Cho trong miệng
tôi có thần
Cho trong hàm
tôi có sắt
Cho môi tôi biết
đoán trước.
Khi
nhập thần ông rùng mình. Các pjâo làm phép bằng nhiều cách, ví dụ:
- Soi
nến lên thân thể người bệnh để tìm nguyên nhân ốm đau
- Đo
gang tay và sải tay để tìm bệnh, chữa bệnh
- Bóp
trứng gà để tìm kẻ phạm tội
Tóm
lại, pjâo là saman của nhiều tộc người Tây Nguyên. Họ có khả năng
xuất thần-nhập hoá, được thần linh
(yang) và linh hồn tổ tiên nhập vào thể xác mình , để chữa bệnh và tìm tội phạm.[1]
VI. 9. Saman
của người Chăm
Saman
người Chăm gọi là “Yang rajak”[1] là lọai
hình lên đồng nhập bóng trong tín ngưỡng dân gian của người Chăm chủ yếu là diễn
ra ở bà Pajau (Pơjau) (bà bóng) và thầy Ka-ing (ông bóng). Trong nghi lễ cúng tế
đền tháp, lễ nghi cộng đồng khi bà Pajau ngồi đồng một hồi lâu (xuất thần để
đưa người về trạng thái rỗng), sau đó khi bị thần linh nhập vào thì toàn bà run
lên, người Chăm gọi hiện tượng này là “yang
rajak”. Khi yang rajak (thần linh
nhập), bà Pajau thường mách bảo những điều tốt, xấu mà thần linh truyền đến cho
dân làng như nói về việc thần linh nổi giận vì dân làng bị ô uế, loạn luân, chửa
hoang, ăn cắp, người chết khiêng qua làng. Năm nào dân làng vi phạm những điều
trên thì thần linh sẽ trừng phạt cả cộng đồng, không cho trời làm mưa, hạn hán,
mất mùa và đói kém. Muốn tránh được tai ương, sự trừng phạt của thần linh thì
dâng làng phải cúng lễ tế thần để tạ lỗi và hứa với thần sẽ không bao giờ tái
phạm nữa. Lúc đó thì thần mới ban cho mưa thuận gió hoà, khỏi bị hạn hán, bệnh
dịch, dân làng sẽ được sức khoẻ và mùa màng.
Sau
khi Bàlamôn, đặc biệt là Hồi giáo xâm nhập vào Chăm thì loại hình Saman giáo
người Chăm biến đổi và ảnh hưởng đậm Mã Lai. Bên cạnh bà Pajau làm nghề đồng bóng,
thì xuất hiện thêm bà Raja và ông bóng Ka-Ing trong hệ thống lễ Raja. Dựa vào
nhiều tư liệu cho biết, bà Raja và ông bóng Ka- ing có nguồn gốc từ Mã Lai.[1] Về sau
hình thức lên đồng nhập bóng của ông Ka- Ing trong lễ Raja Chăm phong phú và hấp
dẫn hơn bà Pajau trong lễ nghi dân gian cũng như lễ nghi ở đền tháp Chăm Ahier.
Những yếu tố nghi lễ, tục cúng, những cung văn, khúc nhạc, lời ca, điệu múa, sự
hòa âm phối khí của nhạc lễ, khói trầm hưởng bay nghi ngút trước bệ thờ, tượng
thờ, những lời cầu khấn và chấp tay cầu nguyện của dân làng là những yếu tố tổng
hòa tạo nên hiện tượng hoá thân của bóng đồng của bà Pajau, Raja và thầy Ka-Ing
trong loại hình tín ngưỡng, Saman của người Chăm . Khác với bà Pajau cúng tế ở
đền tháp, bà Pajau Chăm trong lễ Rija có khả năng chữa một số bệnh thông thường[1].
Tóm lại, Saman của người Chăm có nhiều hình thức và có cả ở
hai giới đàn ông và đàn bà. Cả hai đều có khả năng xuất thần-nhập
hoá, được thần linh (yang) và linh hồn tổ tiên nhập vào thể xác mình, để chữa bệnh,
truy tìm tội phạm và có khả năng dự báo trước những điều lâm nguy sẽ đến với cộng
đồng nếu có.
Khắp đất nước ta, từ bắc chí nam, rất
nhiều dân tộc/tộc người tôn thờ tín ngưỡng sa man: Kinh, Mường, Thái, H’mông,
Tày, Êđê, Jrai, Bana, Chăm, Raglai,v.v…Đó là những tín ngưỡng sa man tiêu biểu
với những đặc điểm về cơ chế vận hành như:
-
Thầy sa man nhập định, rồi xuất thần- nhập hoá, đi vào thế giới siêu linh, ở mường
Trời.
-
Ông tiếp xúc với các nhân vật thần linh để thương thuyết, cầu xin nhằm thực hiện
một số công việc đối với người trần như: chữa bệnh, dẫn hồn người chết, tìm vía
bị lạc, tìm tội phạm, bắt giữ ma ác,…
-
Trong một số trường hợp ông còn phải đẫn đầu và chỉ đạo một đoàn vía tuỳ tùng,
xuất và nhập, hồn/vía họ, đưa họ đi đến nơi, về đến chốn.
V. Kết luận
1. Tín ngưỡng saman là một hiện tượng lâu đời, khoảng 20 000 năm và được phổ biến rộng
rãi trên các châu lục. Nhiều quốc gia dân tộc đánh giá đúng mức hiện tượng văn
hóa tín ngưỡng này, đã phát huy nó trong xã hội hiện đại.
2. Đây
cũng là một tín ngưỡng có từ lâu đời và phổ biến rộng rãi trong các dân tộc/tộc
người nước ta
3. Cơ chế đặc trưng của saman
là xuất
thần-nhập hóa và liên thông với thế giới siêu linh. Đặc trưng này có liên quan đến khả năng tiềm ẩn của con người mà ngày nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới đang dầy công nghiên cứu và ứng dụng.
4.
Cũng như một số nước trên thế giới, tín ngưỡng này “đã trở thành niềm tin sâu đậm
không chút nghi ngờ trong đầu óc một bộ phận nhân dân”. Vậy chúng ta cần:
- Thực
hiện đúng pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo, bảo đảm tự do tín ngưỡng;
- Khai
thác những mặt mạnh, hạn chế mặt yếu của saman các dân tộc để phục cho đời sống, xã hội
Tài liệu
tham khảo chính (xin xem cuối bài 2)
[1]
GS TSKH, Giám đốc Trung tâm bảo trợ văn hóa kỹ thuật truyền thống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét