Bài trong Kỷ yếu Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ nhất về "Nghiên cứu và ứng dụng Tiềm năng con người"
TIẾP CẬN NGHIÊN
CỨU TÂM LINH
QUA ÁNH SÁNG VẬT LÝ HỌC HIỆN ĐẠI
Đào
Vọng Đức[1]
Chúng
ta đang chứng kiến thời đại phát triển rực rỡ của khoa học và công nghệ đánh dấu
bởi vô số những phát minh ngoạn mục, từ những lãnh vực lý thuyết trừu tượng nhất
đến các ứng dụng rộng rãi nhất trong thực tế sản xuất và đời sống.
Những
thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại rọi những tia sáng mới vào cách tiếp
cận nghiên cứu về các phạm trù thuộc các lãnh vực tâm linh huyền bí.
I. Thuyết Tương đối và Thuyết Lượng tử
Theo
dự đoán của nhiều học giả nổi tiếng, thế kỷ 21 này sẽ đánh dấu một bước tiến vĩ
đại về trí tuệ, đó là nhận thức được rằng khoa học và tâm linh không hề đối nghịch
nhau mà là hai mặt đối ngẫu bổ sung cho nhau để nghiên cứu thực tại. Điều này
cũng hoàn toàn phù hợp với khẳng định của Einstein - nhà bác học lỗi lạc, người
có công đầu trong việc khai sáng Thuyết tương đối và Thuyết lượng tử, rằng
“Khoa học, tôn giáo, nghệ thuật là những cành nhánh của cùng một cây” và “cái đẹp
nhất mà chúng ta có thể trải nghiệm được chính là cái bí ẩn. Đó là cảm thức nền
tảng trong cái nôi của Nghệ thuật và Khoa học chân chính. Những ai không còn khả
năng ngạc nhiên rung cảm trước cái bao la huyền bí của Tạo hóa thì xem như đã tắt
rụi lửa sống trong lòng mình”.
Lịch
sử phát triển khoa học cũng cho thấy rằng những phát minh lớn có được không chỉ
dựa vào lý trí và lập luận logic thuần túy, mà còn bằng cả những nhạy cảm thẩm
mỹ và sự hỗ trợ của các yếu tố trực giác và cảm hứng.
Trong
bài phát biểu nhận giải thường Nobel Vật lý Heisenberg - nhà Vật lý lỗi lạc, người có công đầu khai sáng Thuyết
lượng tử có câu nói với ý rằng “Ngụm nước đầu trên cốc nước của Khoa học tự
nhiên có thể biến bạn thành người vô thần, nhưng hãy uống tiếp đi, Ông Trời
đang chờ bạn ở đáy cốc”.
Những
thành quả kỳ diệu nổi bật nhất của khoa học và công nghệ hiện đại khởi nguồn từ
sự ra đời của Thuyết lượng tử và Thuyết tương đối, những thành tựu vĩ đại nhất
của Vật lý học thế kỷ 20. Người ta thường ví những thành quả từ thuyết lượng tử
và thuyết tương đối mang đến cho cuộc sống ngày nay như những đợt sóng thần
ngày càng dâng cao trong quá trình tiến triển của nhân loại với những ảnh hưởng
to lớn không thể lường hết được đối với sự tồn vinh của nhân loại.
Tiền đề xuyên suốt của Thuyết lượng tử là “Nguyên lý bổ
sung đối ngẫu”
khẳng định rằng mọi vật thể cùng một lúc thể hiện mình với hai bản chất tựa hồ
như tương phản nhau - Sóng và Hạt, trong đó bản chất sóng là cơ bản. Thế giới
hiện tượng như ta cảm nhận là những con sóng uốn lượn lan tỏa trên mặt một đại
dương năng lượng mênh mông vô tận, có lúc cô đọng lại thành các khối có hình thể
(Hạt) và rồi cuối cùng lại tan biến thành sóng trên mặt đại dương đó.
Nguyên
lý bổ sung đối ngẫu dẫn đến một hệ quả cực kỳ quan trọng: Khái niệm
quỹ đạo (như vẫn thường quan niệm trong Cơ học cổ điển Newton) mất hết ý
nghĩa. Vật thể chuyển động không theo bất cứ một quỹ đạo xác định nào. Suy rộng
ra, vật thể có thể cùng một lúc hiện diện tại vô số vị trí khác nhau. Đó chính
là nội dung của nguyên lý chồng chập trạng thái của Thuyết lượng tử.
Nguyên
lý bổ sung đối ngẫu cũng hoàn toàn phù hợp với giáo lý của Phật thể hiện sâu sắc
trong Kinh Kim Cương và Kinh Bát Nhã Ba La Mật.
Cũng hoàn toàn trùng hợp với giáo lý về chân không
“Lý Màu Thường Trụ” trong Kinh Phật, Thuyết lượng tử dẫn đến một hệ quả rất
quan trọng là không thể tồn tại chân không như một “Không gian trống rỗng”.
Chân Không là trạng thái nền với mức năng lượng thấp nhất, nhưng mức thấp nhất ấy
cũng đã là lớn vô hạn. Khi hội tụ các điều kiện thích hợp, từ chân không sẽ tạo
ra các hạt và phản hạt mọi thể loại, tương tác với nhau dưới mọi hình thái để tạo
ra thế giới muôn hình muôn vẻ như ta cảm nhận, và cuối cùng lại hủy hoại trở về
chân không. Bản chất này của “chân không lượng tử” dẫn đến sự tồn tại một tha lực
kỳ bí trong đó, được gọi là hiệu ứng Casimir. Ứng dụng hiệu ứng này vào công
nghệ nano và tìm kiếm những nguồn năng lượng mới là một hướng nghiên cứu đầy hứa
hẹn đang được nhiều người đặc biệt quan tâm.
II. Viễn chuyển lượng tử và Thông tin Lượng tử
Cũng
chính xuất phát từ nguyên lý chồng chập trạng thái của Thuyết lượng tử mà
Feynman đã nảy ra ý tưởng về máy tính lượng tử - một lãnh vực nghiên cứu hoàn
toàn mới đang trên đà phát triển rất sôi động. Nhiều ý kiến nhận định rằng đó sẽ
là một thành tựu ngoạn mục nhất của thế kỷ 21 này, sẽ tạo ra những bước tiến nhảy
vọt vĩ đại không những trong khoa học và công nghệ mà còn rất nhiều lãnh vực
khác của đời sống xã hội.
Do sử dụng nguyên lý chồng chập trạng thái, máy tính lượng
tử có tốc độ tính toán vô cùng lớn. Người ta ước tính rằng một máy tính lượng tử
chỉ với 32 bit đã có thể hoạt động tương đương với 4 tỷ máy tính mạnh nhất hiện
nay.
Máy
tính lượng tử sử dụng các trạng thái chồng chập với một số tính chất rất đặc biệt
gọi là “trạng thái đan chằng” (entangled states). Các trạng thái này có một đặc
trưng rất kỳ lạ là một khi hai đối tượng nào đó đã ở trong trạng thái này cùng nhau thì chúng mãi mãi vương vấn
nhau, khăng khít ảnh hưởng lẫn nhau cho dù sau đó tách xa nhau bao nhiêu, và nếu
một đối tượng chịu một tác động nào đó thì ngay lập tức đối tượng kia sẽ bị ảnh
hưởng theo. Điều này dẫn đến một nghịch lý kỳ bí và rối rắm về logic, đến ngay
Einstein cũng không thể nào hình dung nổi và gọi đó là “tác động thần bí phi
không gian”.
Gắn liền với Máy tính lượng tử, những lãnh vực
có tính thời sự đang phát triển mạnh là Viễn chuyển lượng tử và Thông tin lượng
tử.
Lý
thuyết đã chứng tỏ được rằng có thể tạo ra được cơ chế chuyển một trạng thái bất
kỳ từ một vị trí này qua một vị trí khác và từ đó tái tạo một vật thể từ một
nơi này tới một nơi khác xa bao nhiêu tùy ý trong chớp nhoáng. Hiệu ứng này có
thể gọi là “thần thông chuyển vị lượng tử” (quantum teleportation) làm ta liên
tưởng đến những câu chuyện thần thoại về thần thông biến hóa, thoắt ẩn thoắt hiện,
xuất quỹ nhập thần…
Liên
quan đến Viễn chuyển lượng tử, một hướng nghiên cứu mới phát sinh là “Viễn chuyển
tâm linh” (Psychic teleportation). Bản chất của Viễn chuyển tâm linh là áp dụng
các nguyên lý của máy tính lượng tử để dung thông truyền đạt ý tưởng hoặc điều
khiển các vật thể di động, biến hóa một đối tượng bằng cách sử dụng một dạng
tương tác tâm linh huyền bí.
Thông
tin lượng tử cho ta khả năng chuyển nhanh tức khắc và an toàn tuyệt đối các
thông tin mật được mã hóa dưới dạng các trạng thái lượng tử. Cần nói thêm rằng
tuy chưa ý thức thất đầy đủ, nhưng người ta cũng đã hình dung được rằng các quá
trình cơ sở nhất của thiên nhiên thực chất là các quá trình xử lý thông tin lượng
tử diễn ra khắp nơi quanh ta, và lượng thông tin xử lý trong một đơn vị vật chất
và thời gian cực bé cũng lớn hơn rất nhiều lần lượng thông tin mà toàn bộ công
nghệ thông tin cổ điển đã tiến hành.
III. Những thành tựu của Vật lý học hiện đại rọi những
tia sáng minh triết vào khoa học dự báo, lĩnh
vực liên quan mật thiết đến phạm trù không gian - thời gian
Có thể đưa ra lý luận chứng tỏ rằng thời gian
không trôi chảy. Những cảm nhận về chuyển động của thời gian trong tâm thức ta
chỉ là ảo giác, như Einstein đã khẳng định “Quá khứ, hiện tại và tương lai chỉ
là những ảo tưởng cố hữu”. Đã có nhiều ý kiến cho rằng cảm nhận thời gian trôi
liên quan đến các quá trình lượng tử xảy ra trong bộ não. Chính trong lúc hành
thiền sâu nhiều vị thiền sư đã đạt được trạng thái không còn ảo giác thời gian
trôi, vạn vật dường như đóng băng trong thời gian.
Vật
lý học hiện đại hình dung thời gian trong tổng thể như “thời cảnh”, trong đó
các sự kiện được gắn vào các thời điểm cố định, cũng tương tự hình dung không
gian như một phong cảnh, trong đó các vật thể được đặt ở các vị trí xác định.
Nghiên
cứu thế giới vi mô cùng với các hình thái năng lượng và qui luật tương tác
trong đó tạo ra thế giới quanh ta ra sao là những vấn đề cốt lõi của Vật lý học
hiện đại. Lý thuyết và thực nghiệm đã khẳng định sự tồn tại bốn hình thái năng
lượng gắn liền với bốn dạng tương tác cơ bản - mạnh, yếu, điện từ và hấp dẫn, tạo
nên bức tranh của cả vũ trụ như ta cảm nhận. Một hướng nghiên cứu có tầm quan
trọng đặc biệt của Vật lý học hiện đại là xây dựng Lý thuyết Đại thống nhất -
thống nhất các dạng tương tác trên cùng một nền tảng. Các mô hình thống nhất dựa
trên cơ sở Thuyết lượng tử và Thuyết tương đối đã dẫn đến cách nhìn nhận sâu sắc
về bản chất của không gian, thời gian, bản chất các dạng tương tác và hình thái
năng lượng. Đặc biệt đã xuất hiện những ý tưởng về sự tồn tại các dạng siêu
tương tác ứng với năng lượng siêu nhiên gắn liền với các hiện tượng siêu nhiên
được xem là kỳ bí mà các giác quan bình thường của con người cũng như khoa học
- kỹ thuật hiện nay chưa đủ trình độ để phát hiện.
Các
kết quả nghiên cứu lý thuyết đã chứng tỏ rằng ngoài 3 chiều không gian và 1 chiều
thời gian như chúng ta đang sống và cảm nhận, nhất thiết phải có thêm một số
chiều không - thời gian nữa được gọi là các chiều nội tại - các chiều phụ trội
(extra- dimensions). Nghiên cứu bản chất các chiều nội tại là những vấn đề có
tính thời sự đặc biệt của Vật lý học hiện đại. Có giả thiết cho rằng không - thời
gian nội tại liên quan đến thế giới tâm linh, các qui luật tác dụng trong đó
mang màu sắc của các phạm trù tâm linh và tương tác tâm linh được chuyển tải
theo các chiều nội tại.
Ở
đây ta có thể liên tưởng đến một dạng siêu năng lượng bắt nguồn từ lòng từ bi -
bác ái, vô ngã - vị tha được nói đến nhiều trong Kinh Phật, Kinh Thánh, cũng
như các vị thầy tâm linh thường nhắc nhở. Tình yêu thương cũng như môi trường
tình thương dẫn đến một dạng tương tác tâm linh tạo ra “năng lượng tình thương”
có nội lực vô biên giúp chiến thắng bệnh tật và vượt qua mọi chướng ngại.
Trong
Kinh Dược sư có viết rằng Đức Thế tôn Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai khi còn
tu hành Đạo Bồ Tát, xuất phát từ lòng thương chúng sinh có phát tâm 12 Đại nguyện
mà trước tiên là: Nguyện đời sau khi đắc chứng Đạo Vô thượng Bồ Đề thân hình
như ngọc lưu ly sáng trưng rực rỡ soi suốt vô lượng vô biên thế giới, công đức
cao vời vợi và an trú trên tầng lưới hào quang. Tất cả chúng sinh nhờ ánh sáng
đó mà tâm trí được mở mang, thân hình khỏe mạnh, làm việc gì cũng được vẹn toàn
như ý.
Một
lý thuyết Đại thống nhất được đánh giá có nhiều triển vọng là Lý thuyết Dây/ Lý
thuyết M. Trên cơ sở lý thuyết này có hy vọng tìm được cách tiếp cận giải thích
các hiện tượng tâm linh. Một hệ quả trực tiếp của Lý thuyết M là sự tồn tại
song song Đa vũ trụ. Chúng ta đang ở trong một vũ trụ của Đa vũ trụ đó. Có khả
năng tồn tại đồng thời 10500 vũ trụ khác nhau, mỗi vũ trụ vận hành
theo những qui luật riêng của mình. Tất cả các vũ trụ này tạo nên từ sự thăng
giáng lượng tử của chân không và là các phiên bản của nhau. Bản thân mỗi con
người cũng đều có phiên bản ở tất cả Hằng hà sa số vũ trụ đó. Trong mô hình vũ
trụ này tồn tại đồng thời vô số con người trong một con người, và tại mỗi vị
trí mỗi thời điểm tất cả các thông tin trong vũ trụ, của mọi pháp, mọi thời đại,
mọi nơi chốn đều hiện hữu.
Ở
đây ta cũng cần nhắc đến giả thuyết của chủ nghĩa Duy tự nhiên (Naturalism) cho
rằng thế giới tự nhiên là một hệ khép kín, với hàm ý rằng không một yếu tố nào
từ ngoài có thể gây ảnh hưởng đến thế giới đó. Tuy nhiên, điều này trái với định
lý bất toàn nổi tiếng của Godel (1931) chứng minh dứt khoát rằng một hệ thống
logic khép kín bao giờ cũng chứa những mệnh đề không giải được. Có nghĩa rằng một
hệ tiên đề khép kín không bao giờ là đầy đủ về mặt lập luận logic, không bao giờ
là phi mâu thuẫn. Muốn lý giải được mọi thứ
phải có thêm yếu tố ngoại lai - chấp nhận niềm tin. Mọi lập luận rốt cuộc đều
quay lại với niềm tin vào điều gì đó không thể chứng minh. Định lý bất toàn
Godel chứng tỏ rằng khoa học không bao giờ lấp kín những lỗ trống của chính nó.
Điều này hoàn toàn tương thích với quan điểm của Einstein cho rằng “Trí tuệ con
người không đủ khả năng hiểu biết vũ trụ vạn vật”.
Ở
đây về mặt lý luận còn rất nhiều vấn đề phải giải quyết, rất nhiều câu hỏi phải
được lý giải. Nhưng rõ ràng rằng nghiên cứu các lãnh vực với mức độ tinh tế
khác nhau thì cách tiếp cận phải khác nhau. Đặc biệt với các hiện tượng siêu
nhiên thì đòi hỏi phải vận dụng các khái niệm và các hệ tiên đề hoàn toàn mới,
có thể rất xa lạ với những điều đã quen thuộc trước đó. Đây là cuộc viễn chinh
khoa học gian nan nhưng đầy hứa hẹn, đòi hỏi sự đóng góp công sức và trí tuệ của
các nhà khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học tâm linh.
Chúng ta có cơ sở
để hy vọng rằng đồng hành với sự phát triển ngày càng sâu rộng của khoa học và
công nghệ, dần dà chúng ta sẽ tiếp cận được những lãnh vực các hiện tượng mà
cho tới nay vẫn được xem là ở các tầng huyền
bí./.
[1]
GS VS TSKH, Nguyên Viện trưởng Viện Vật lý - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ
Việt Nam, Nguyên Giám đôc Trung tâm
Nghiên cứu tiềm năng con người
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét