Bài đã đăng trong Kỷ yếu Hội thảo của Viện NC & ƯD TNCN ngày 29.01.2015
BÀN VỀ LONG
MẠCH THĂNG LONG
VÀ ĐỊA LINH
BA ĐÌNH KỲ BÍ
Nhà Nghiên cứu Bùi thành Phần
Trung tâm
Trắc nghiệm- Tư vấn- Bồi dưỡng
Long mạch là khái niệm nói về hình thế sông - núi có
mang Địa khí mạnh. Địa khí này có thể tác động đến môi trường xung quanh .
Long mạch được
tạo nên bởi sự vận hành của Thiên - Địa, Âm Dương - Ngũ hành, Bát quái,
... Con người chỉ có thể vận dụng chứ
không thể can thiệp thay đổi nó được. Đây là "cỗ máy kiến lập thần kỳ" của Vũ trụ (Không gian -Thời gian)
trong quá khứ - hiện tại - tương lai .
Long mạch có thể
đi cao như những dãy núi, dãy đồi và cũng có thể đi trên những thửa ruộng, cánh
đồng hoặc như những con sông, dòng suối, ...
Nó có thể xác định được qua hình dạng của những dải núi,
dãy đồi, doi đất, dòng sông, con suối, ... với dáng vẻ giống như con Rồng đang
trườn bò, bay lượn hoặc nằm dấu mình, hoặc uốn khúc nhấp nhô lúc ẩn, lúc hiện,
...Long mạch có hai dạng: "Sơn mạch" và "Thuỷ mạch". Long mạch lại được chia ra thành: Can Long,
Chi Long, Cước Long, Bàng Long.
Nhiều sách cổ giải thích về sự huyền bí của đất (Địa
giải huyền thư) chỉ ra rằng, nếu:
- Cuộc đất nào
nằm trên Đại Can Long thì có thể hình thành lên Kinh sư (nơi đóng Đô) của một Đất
nước.
- Cuộc đất nằm trên Chi Long thì có thể lập nên Thành
phố, Đô thị cấp tỉnh .
- Cuộc đất nằm vào Cước Long thì có thể là Thị trấn ,
Xứ cấp Phủ, Huyện.
- Cuộc
đất ở bên Bàng Long thì có thể là nơi đóng trụ sở cấp Tổng, Xã.
Đối với một Quốc gia, nếu đã có Long mạch rồi, nhưng vẫn
cần đòi hỏi phải có ít nhất một Đại Can Long với hình thế khúc chiết, vững vàng
thì mới được coi là đất "Đế Vương".
Đây là điều kiện, là yếu tố cơ bản, đầu tiên để có thể lập nên Kinh sư của
một Nhà nước. Ví dụ:
Nước Trung Hoa
rộng lớn cũng có nhiều Đại Can Long như các sông: Dương Tử, Hoàng Hà, Trường
giang, Hoàng Phố, Áp Lục giang, Hắc Long giang, ...
Đất nước Việt Nam cũng có một số Đại Can Long, như:
Sông Hồng, sông Hương, sông Hoàng long, sông Cửu long,...Đây là những Đại Can
Long và nó đã tồn tại hàng ngàn năm nay.
Khi muốn tìm ra Long mạch thì còn phải xem xét
kỹ về hình thái, đường lối vận hành của
"Tượng Khí" có liên quan đến Địa hình, Địa mạo, Phương hướng,
Địa thế và vị trí của các chòm Sao đóng trên bầu Trời , ...
Nếu
lấy sự "động - tĩnh của Đất -Trời" làm động lực thúc đẩy cho sự phát
triển, thì Long mạch được tạo lập bởi quá trình vận hành của Khí - trong đó
Thiên Khí thuộc Dương, Địa Khí thuộc Âm - hội hợp hài hoà, rèn rũa, hun đúc mà
nên.
Khí cũng có chỗ khai (mở), chỗ bế (tắc). Có nơi phát
tán, có nơi ngưng tụ và có Khí cát (tốt), Khí hung (xấu), ... biến ảo tuỳ thời. Ví như, cũng ở trên mảnh đất này, theo thế đất
đó, hướng là như vậy,...Nhưng có thể thời kỳ đầu phát đạt, rồi sau lụi tàn
(nghĩa là tiền cát, hậu hung). Ngược lại, có nơi, mới đầu gặp nhiều hung hoạ,
nhưng sau đó dần dần thịnh vượng lên (nghĩa là tiền hung - hậu cát). Cho nên
các nhà Phong Thuỷ phải biết rõ điều này. Tuy vậy thời gian nào cát, đến lúc nào hung,…thì còn nhiều
bí ẩn, rất khó mà biết cginhs xác được
Sau
đây xin phân tích đôi chút về Long mạch Thăng Long với “Địa linh Hoàng Thành” tại
mảnh đất Ba Đình (Hà Nội) như sau:
Cuối
năm 1009, tại Hoa Lư (Ninh Bình) , Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế - tức Vua Lý
Thái Tổ - vị Vua sáng nghiệp Vương triều Lý .
Thuở ấy Hoa Lư là Kinh đô của nước Đại Cồ Việt dưới Triều Đinh (968 -
979) và Tiền Lê (980 - 1009). Đây là một
vùng núi sông hiểm trở thích hợp cho việc phòng thủ và tiến công quân sự của một
nhà nước độc lập non trẻ. Với lợi thế lợi hại của Hoa Lư, Nhà Đinh đã đánh bại
và dẹp yên được 11 xứ quân cát cứ khác để lập nên nghiệp Đế, khôi phục và củng
cố nền thống nhất quốc gia Cũng tại Hoa Lư, Triều Tiền Lê đã đập tan nạn xâm lược
của nhà Tống, bảo vệ vững chắc nền độc lập, mở đầu kỷ nguyên Đại Việt bách chiến
bách thắng quân phong kiến xâm lược phương Bắc. Trong vòng 41 năm (968 - 1009)
Kinh đô Hoa Lư đã xứng đáng với vị trí lịch sử mà Đinh
Tiên Hoàng và Lê Đại Hành đã chọn. Bước
sang thời kỳ mới, trên một quy mô lớn và trước yêu cầu của lịch sử thì vị trí ,
địa thế của Hoa Lư không còn đáp ứng được vai trò là Kinh đô của một nước và
Ngài cũng thấy thành Đại La, Đô cũ của Đại Vương Cao Biền (nằm trên Đại Can
Long là ngôi Địa linh có thể dựng Kinh đô đến hàng vạn năm sau. Vì thế đầu năm
1010 chính Lý Công Uẩn đã tự tay viết Chiếu dời Đô về nơi có Long mạch lý tưởng
ấy. Ngài vạch rõ: Thành Đại La "Ở trung tâm bờ cõi đất nước, được cái thế
Rồng cuộn, Hổ ngồi, vị trí ở bốn phương Đông, Tây, Nam Bắc; tiện hình thế núi sông sau trước ... xem
khắp nước Việt ta, chỗ ấy là nơi hơn cả, thật là chỗ hội hợp của bốn phương, là
nơi Đô thành bậc nhất của Đế Vương" . Từ đây Thành Đại La được đổi là
thành Thăng Long và giữa vai trò Kinh đô - trung tâm Chính trị - Hành chính Quốc gia ngàn năm văn hiến. Sau
khi dời Đô về Thăng Long , Lý Thái Tổ đã cho xây dựng nhiều công trình quan trọng
- đặc biệt như khu cung điện của nhà Vua và Triều đình gọi là Cấm thành . Phía ngoài có vòng thành thứ hai gọi là Hoàng
thành , hay còn gọi là thành Long Phượng , hoặc Thăng Long thành – goi tắt là
Long thành. Đây là khu vực “Thành –
Chính trị”, còn có tên gọi là “Thành thị Quân vương” giữ vai trò là cơ quan đầu não của Nhà nước
Trung ương tập quyền .
Sau
nhà Lý, tiếp đến nhà Trần, nhà Lê (Lê sơ) – và kể cả nhà Nguyễn sau này, ... mỗi
lần đổi thay Triều đại, thành đều được sửa sang, tu bổ ... nhưng vị trí thì
không có gì khác.
Như vậy khu Hoàng thành - Kinh đô của
đất nước suốt từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX đều được đặt trên khu vực đất thuộc
quận Ba Đình ngày nay . Tại đây và các vùng lân cận đã diễn ra không biết bao
nhiêu sự kiện có liên quan đến vận mệnh của dân tộc và đất nước . Nơi đây đã trải qua những tháng - năm vinh
quang hào hùng cũng như những thời khói lửa lầm than , theo những bước thăng trầm của lịch sử suốt một thời: Thăng Long - Đông Kinh - Hà Nội .
Xin điểm lại một vài sự Kiện đặc biệt
đã diễn ra trên mảnh đất linh thiêng này:
Thăng Long là một vùng đất "ngưỡng diện" (mặt ngửa lên Trời) -
sách Địa lý - Phong Thuỷ gọi là
"Dương lai , Âm thụ" - nghĩa là Khí dương phủ xuống , Khí âm
ngẩng lên đón . Đất này mềm mỏng, Khí
ngưng kết ở bên trên, tiêu tán ở bên dưới.
Địa huyệt ở nơi cao nhất - đấy là núi Nùng - núi này còn có tên gọi là
"Long Đỗ". Long Đỗ được phiên
âm từ chữ nho mà ra, nếu dịch đúng nghĩa là "bụng Rồng" chứ không phải
là "rốn Rồng" - cụm từ "rốn Rồng" theo chữ nho là
"Long Tê". Tất nhiên cả khu đất
rộng lớn là "bụng Rồng" ấy cũng có nơi hội tụ vượng Khí lớn nhất, tốt
nhất của cả đất nước sẽ là rốn Rồng - có lẽ vì cái lý ấy mà người ta đồng nhất
bụng Rồng (Long đỗ) với rốn Rồng (Long tê) chăng ?
Vùng đất Hoàng thành Thăng Long ngược lại
với Kinh đô Hoa Lư nơi mà Lý Công Uẩn lên ngôi trước đó: Hoa Lư có cái thế "Âm lai , Dương thụ", là mảnh đất
cương mãnh, Khí tiêu tán ở bên trên và ngưng tụ ở phía dưới. Huyệt vị ngưng kết ở nơi thấp nhất. Hoa Lư có lợi cho phòng thủ và tiến công
trong hoạt động quân sự. Mảnh đất
thiêng này có thể tạo lập nghiệp Đế vương, nhưng phúc trạch không dài. Hai Triều Vua trước (Đinh - Tiền lê) đều là
những nhà có võ công hiển hách nhưng không nhà nào kéo dài được quá ba mươi
(30) năm. Có lẽ điều này là nguyên nhân
khiến Lý Thái Tổ - một vị Vua có tầm nhìn xa trông rộng - đã quyết định rời Đô
về Thăng Long - và Hoàng Thành được định ngay trên bụng con Rồng (Long Đỗ)?
Đúng vậy , nơi đây đã không phụ lòng vị Vua
anh minh ấy - Triều Lý tồn tại được 216 năm. Không những thế các Triều đại nối
tiếp với những vị Quân vương chính trực anh minh
của Triều Trần, Triều Lê ngự trên mảnh đất này cũng được hưởng phúc trạch kéo
dài.
Địa
linh - Long mạch để lại phúc cho con người cũng có những điều kiện và không
dành riêng cho một ai mãi mãi. Ở trên mảnh đất ấy phải là người có đức. Đức càng dày, càng kiên cố thì vận phúc càng kéo dài,
chỉ đến khi nào đức cạn hết thì vận phúc cũng tuyệt theo.
Mảnh đất Hoàng Thành ngày xưa - Ba đình hiện
nay chính là như thế - Nghĩa là nó cũng có một
"mức hạn nhất định" cho
những "Nhà nào" ngự trên mảnh
đất này ?! .
Xin dẫn ra
mấy Triều đại đã từng ngự trên mảnh đất Hoàng Thành - Ba Đình như
sau
1. Thời nhà Lý (1009 - 1225)
Hoàng Đế Lý Thái Tổ dời Đô từ Hoa Lư về Thăng
Long thì cùng một lúc Ngài cho kiến thiết cung điện để làm nơi làm việc, nơi ở
của Vua , Quan , Quý tộc và xây dựng Thành luỹ bảo vệ. Đồng thời Ngài cũng cho
người về quê xây dựng tám ngôi chùa tại phủ Thiên Đức (châu Cổ
Pháp - nay thuộc huyện Từ Sơn - Bắc
Ninh) .
Có lẽ Ngài đã biết rõ bí mật
của mảnh đất Kinh sư này chỉ có thể để cho Ngài và con cháu của Ngài làm Vua trọn vẹn tám đời mà thôi,
vì vậy Ngài cần chuẩn bị sẵn chốn ra về cho vong linh của mình và con
cháu? Quả thật, nhà Lý do ngài sáng lập
cho đến khi kết thúc, truyền ngôi trọn vẹn được vừa đủ tám đời và làm chủ Đất Đại
Việt 216 năm – trong đó có một năm của
Lý Chiêu Hoàng – đời thứ chín, nhưng làm mất ngôi nhà Lý.
Ngay cuối
Triều Lý, Vua Lý Huệ Tông ở đời thứ tám, về cuối đời rượu chè say sưa tối ngày,
không quan tâm gì đến Triều chính, nên tuy không có giặc ngoài, nhưng trên mảnh
đất Kinh kỳ cũng phải chịu bao phen binh đao do tranh giành quyền lực của các
phe phái, vì vậy từ năm 1216 đến năm 1220 Vua phải bỏ dời Hoàng thành để
ra Tây Phù Liệt (Thanh Trì) xây Điện tạm - và Hoàng thành bị gọi là Cựu kinh
(Kinh đô cũ) - từ đây bắt đầu báo hiệu cho cái
"đức của nhà Lý" đã cạn và vận phúc sẽ tuyệt trong nay
mai!
Quả
thực Nhà Lý làm chủ Thăng long trọn vẹn tám
đời - và "con
số tám" này gần như là " con số định mệnh " của Thăng Long - một cái giới hạn - mà không có một nhà nào trụ ở đây có thể vượt
qua!
2. Nhà
Trần (1225 - 1400)
Vua Lý Huệ Tông, vị Vua thứ tám đời nhà Lý về cuối đời
chỉ đam mê tửu sắc, bỏ bễ công việc Triều chính và vô trách nhiệm, đã truyền
ngôi cho người con gái thứ hai là Chiêu Thánh, lúc đó mới 8 tuổi, lên làm Vua - tức Lý Chiêu Hoàng -
vào năm 1225, rồi đi tu ở chùa Chân Giáo.
Mọi quyền hành lúc này đều nằm trong tay Thái sư Trần Thủ Độ. Nhân cơ hội "Trời cho", dưới sự
chèo lái tài ba, khôn ngoan dày dạn kinh nghiệm của một nhà Chính trị, Trần Thủ
Độ đã nhanh chóng tạo nên mối duyên tình giữa Lý Chiêu Hoàng với Trần Cảnh
(cháu của ông) thành vợ chồng, và lập tức sau đó Lý Chiêu Hoàng lại truyền ngôi
cho chồng vào ngay năm 1225 định mệnh ấy .
Như vậy
nhà Trân đã giành được cơ nghiệp từ tay nhà Lý một cách hòa bình hợp pháp.
Nhà Trần tồn tại được trên đất Hoàng thành 174 năm với tám đời (và 12 vị Vua. Nhưng đến đời thứ sáu thì cái đức của nhà Trần
bắt đầu cạn (từ Trần Nghệ Tông) phúc trạch ngày một mỏng dần và thời vận đã đến
kỳ kết thúc. Mấy đời sau Vua tôi còn đấy nhưng chỉ là "hư vị" nên phải
dời xa Hoàng thành - mảnh đất thiêng - để cho cơ đồ sụp đổ tan tành, con cháu bị
triệt hạ một cách tàn khốc và hàng loạt quần thần trung thành với nhà Trần bị
giết chết, cuối cùng cơ đồ nhà Trần rơi vào tay Hồ Quý Ly.
3. Thời nhà Hồ ( 1400 - 1407 )
Hồ
Quý Ly soán đoạt ngôi nhà Trần và cũng thực hiện được một số cải cách mang tính tích cực, quyết đoán với một bản lĩnh
phi thường. Nhưng nhìn tổng thể thì những việc làm ấy chỉ có lợi cho nhà Hồ nhiều,
còn lợi ích Quốc gia dân tộc chẳng được là bao.
Đối với Kinh thành Thăng Long, nhà Hồ cũng rất
kỵ nơi mảnh đất thiêng này và có một số việc làm xem ra mạo phạm, như:
Cho
xây Kinh đô mới ở An Tôn, Vĩnh Lộc, Thanh Hoá, đặt tên làTây Đô, còn Thăng Long
bị đổi thành Đông Đô. Đây thực chất Hồ Quý Ly đã xoá tên Thăng Long và không để
Thăng Long làm Kinh đô - trung tâm của đất nước nữa. Không những th , sau khi
lên làm Vua, ông còn đổi cả tên nước, từ nước Đại Việt thành nước Đại Ngu.
Chính
vì đức ngắn, phận mỏng, xử sự với Kinh thành quá tệ bạc ... nên nhà Hồ chỉ tồn
tại được 7 năm với hai đời Vua là: Hồ Quý Ly (1400 - 1401)
và Hồ Hán Thương (1401 - 1407)
Nhân
đây Tác giả có đôi điều bình luận về danh tự Đông Đô, như sau:
Ngày
nay nhiều người ngộ nhận rằng Đông Đô là một cái tên được sinh ra từ những chiến
công hiển hách, chói sáng của dân tộc!
Vì thế họ ca ngợi và xếp ngang với Thăng Long - Hà Nội. Họ đã không biết thời gian tồn tại của Đông
Đô rất ngắn trong lịch sử và nó cũng không có một chiến công nào trong thời kỳ
đó. Không những thế Hồ Quý Ly đoạt quyền
một cách tàn bạo, làm nhiều điều tàn ác, rũ bỏ Kinh thành - vùng đất thiêng -
làm dân chúng oán hận và không được lòng dân.
Do vậy, khi giặc Minh sang xâm lược nước ta, Hồ Quý Ly không thể tập hợp
được lực lượng toàn dân đánh giặc. Ngay
như Hồ Quý Ly giao nhiệm vụ cho người con trưởng là Hồ Nguyên Trừng xây thành,
đắp luỹ đánh giặc, Hồ Nguyên Trừng đã phải thưa: "Thần không ngại đánh, chỉ
sợ lòng dân có theo hay không mà thôi !".
Chính vì vậy, chỉ một thời
gian ngắn , nhanh chóng cha con Hồ Quý Ly đều bị quân Minh bắt sống (tháng 6 - 1407) , nhà Hồ sụp đổ
hoàn toàn và để nhà Minh biến nước ta thành Quận, Huyện của họ suốt 20 năm -
Ngay cái tên Đông Đô cũng bị đổi
thành Đông Quan và là sào huyệt cai
trị của quân giặc xâm lược .
Xem ra như thế thì Đông Đô ra
đời - do Hồ Quý Ly đặt - chỉ nhằm
"hạ bệ và chối từ Thăng Long" chứ đâu phải như lời một số bài hát, hoặc
bài thơ nào đó đã ngợi ca quá đáng, làm cho nhiều ngươi lầm lẫn mà bắt chước ca
theo, viết theo - Và nếu còn như thế chắc rằng "Thăng Long linh thiêng" sẽ rất buồn vì đã bị lớp người thời
nay hạ thấp qua việc xếp Thăng Long ngang hàng với Đông Đô? !
4. Triều
đại Lê Sơ (1428 - 1527)
Ông tổ dựng nghiệp của
Triều đại Lê Sơ là Lê Lợi. Lê Lợi chính
thức lên ngôi tại Điện Kính Thiên - thuộc thành Đông Quan. Ngài đặt lại tên nước
là Đại Việt (1428) - sau đó hai năm , thành Đông Quan được đổi là Đông
Kinh và Đông Kinh là Kinh đô chính
thức của Triều đại Lê Sơ suốt 97 năm - cũng như còn được kéo dài nhiều năm
về sau này nữa .
Triều đại
nhà Lê võ công thật hiển hách. Nhưng các đời Vua xử lý công việc có nhiều sai lầm.
Nhất là các đời Vua về sau càng thối nát, giêt hại trung thần, phạm nhiều tội
ác ... nên có nhiều vị Vua ở ngôi ngắn, chết non chết yểu - Đặc biệt vào đời thứ
bảy có hai vị là Lê Chiêu Tông và Lê cung Hoàng đều bị Mạc Đăng Dung giết chết
- cơ nghiệp nhà Lê mất vào tay Mạc Đăng Dung năm 1527.
Như thế Triều đại Lê Sơ tồn tại được 99 năm với bảy đời và 10 vị Vua.
Có
câu hỏi đặt ra: Tại sao Triều Lý, Triều Trần đều ngự được ở Hoàng thành Thăng
Long tám đời, mà Triều Lê Sơ chỉ được
bảy đời ?
Theo như người đời kể lại rằng:
Vào năm 1419 giặc Minh vây chặt nghĩa quân Lam Sơn ở núi Chí Linh. Lê Lợi và các Tướng - Sỹ vô cùng khốn đốn, có
nguy cơ bị tiêu diệt. Lúc đó Lê Lai xin
đóng giả thành "Bình định Vương Lê
Lợi" để xông ra mở đường cứu Chúa Lê Lợi. Còn Lê Lợi có hứa nếu thành
công, sau này hoàn thành đại nghiệp, ông sẽ chia đôi Giang Sơn cho Lê Lai? Nhưng rồi vào một ngày của năm 1427 Lê Lai lại
bị chính Lê Lợi giết chết và bị tịch thu toàn bộ gia sản, vơi lý do : "Vì
Lai cậy có công đánh giặc, nói ra những lời ngạo mạn? !" (Đại Việt sử ký toàn thư tập 2 , trang 47 .
Nxb. Văn hóa Thông tin – năm 2004).
Người đời còn cho rằng Lê Lợi giết chết Lê Lai là ông đã tự
triết giảm đi một đời Đế vương của
con cháu mình để trả lại cho Lê Lai?!
Trong dân gian còn có câu vè:
"Hai mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi" là nói về những ngày giỗ của hai Vị
và cho rằng: Lê Lai phải được hưởng ngày cúng giỗ trước Lê Lợi. Bởi nếu không có Lê Lai thì sẽ không có Lê Lợi
(Lê Lợi mất vào ngày 22 tháng 8 năm Quý Sửu - 1433).
Nếu với cái lý trên đây thì
Triều đại Lê Sơ vẫn có đủ tám đời được
ngự trên mảnh đất thiêng Hoàng Thành (trong đó có đời của Lê Lai).
Triều Lê Sơ kết thúc vào năm
1527. Tuy nhiên Triều Lê còn nối tiếp đến thời Lê Trung Hưng, nhưng không được
tính cho Triều Lê Sơ, vì các vị này không phải là con cháu đích tôn của Lê Lợi
và cũng là hư vị, phải sống phiêu bạt, không ở Kinh thành Thăng Long .
5. Triều Mạc và các Triều đại sau:
- Triều Mạc
(1527-1592): Mạc Đăng Dung quê ở Cổ Trai, Nghi Dương , Hải Dương là
cháu đời thứ
bảy
của cụ Mạc Đĩnh Chi. Sau khi cướp được
cơ nghiệp nhà Lê, lập ra nhà Mạc chiếm giữ Thăng Long hơn 60 năm (1527 - 1592) . Nhưng miền địa linh ghê gớm Hoàng thành
không phải là đắc địa để dung nạp và ban
phúc trạch lâu dài cho nhà Mạc.
Nhận rõ điều này, nên Mạc
Đăng Dung đã về quê ở Cổ Trai, xây dựng Kinh đô (gọi là Dương Kinh) , lấy danh
nghĩa là "Thanh viện cho Thăng
Long" nhưng thực chất Mạc Đăng Dung
rất sợ cái "Long mạch Hoàng Thành".
Với hơn 60 năm ngồi trên ngai vàng mà cha con
Mạc Đăng Dung phải có trên 50 năm phiêu
bạt ra khỏi Hoàng thành Thăng Long . Vì
vậy nói về thời gian cư ngụ tại đây thì
cha con Mạc Đăng Dung không thể có cái giới
hạn
"tám đời" và hàng trăm năm tồn tại như nhà Lý, nhà
Trần đã có.
Triều Hậu Lê (Lê Trung Hưng)-còn gọi là thời kỳ Nam-Bắc
triều (1533 - 1548)
Sau năm năm, kể từ ngày bị
nhà Mạc cướp ngôi, đến năm Quý Tị (1533) nhà Lê lại được lập nên với một vị Vua
lúc đó vẫn còn đang ở trên đất nước Lào - đó là Lê Trang Tông - các nhà Sử học
gọi thời này là "Lê Trung Hưng (Hậu Lê)" để phân biệt với thời Lê Sơ
trước đó .
Nhà Hậu Lê tồn tại song song
cùng nhà Mạc (1533 - 1592), nhà Trịnh – nhà Nguyễn(1592 - 1789). Đây là giai đoạn của cuộc nội chiến Nam - Băc
triều và Trịnh - Nguyễn phân tranh, ... gây nên bao cảnh lầm than đau thương
khôn cùng cho nhân dân. Thời kỳ này Thăng Long thực chất nằm trong tay Chúa Trịnh
và trong dân gian cũng có lời Sấm truyền nói về gia tộc nhà Chúa như sau: "Phi Đế, phi Bá quyền khuynh Thiên hạ,
truyền được tám đời, trong nhà dấy vạ!
" .
Đúng như lời Sấm truyền, quyền
hành của gia tộc Trịnh bắt đầu từ Thái Vương Trịnh Kiểm đến đời Trịnh Sâm vừa đủ
tám đời thì nhà Chúa xảy ra biến loạn
và phúc hết vận cũng tuyệt theo - Chúa vẫn là Chúa không phải là Vua khi nào .
- Chẵng riêng gì họ Mạc, họ Trịnh, các đời sau cũng có những Anh hùng - Hào kiệt của đất
nước nổi lên nhưng họ cũng rất ngại gần mảnh đất "Địa
linh - Hoàng thành - Ba Đình"
này. Họ cũng dựng được nghiệp Đế
Vương , nhưng Kinh đô lại dựng ở những nơi khác , như :
+ Nhà Tây Sơn (1778-1802) kéo
dài 24 năm , lập đô ở Phú Xuân (Huế) , sau chuyển về Phượng Hoàng Trung Đô
(thành phố Vinh - Nghệ An)
+ Nhà Nguyễn (1802 - 1945): Nhà
Nguyễn có công rất lớn trong việc mở mang bờ cõi, thống nhất đất nước (từ Lạng
Sơn đến Hà Tiên), vì thế phúc phận cũng được kéo dài tới 143 năm. Nhưng nhà Nguyễn vẫn không dám quay về Kinh đô Thăng Long mà định
Đô ở Phú Xuân (Huế). Không những thế họ
còn tìm mọi cách làm cho mảnh đất Thăng Long này "bớt thiêng"đi , cụ
thể: Tháng 7-1802 Nguyễn Ánh (có sự hỗ
trợ của Pháp) diệt xong Tây Sơn, lên ngôi Hoàng
Đế, lấy niên hiệu là Gia Long, đóng Đô ở
Phú Xuân. Với Kinh thành được nhà Lê đặt tên là Đông Kinh, kéo dài hơn 100
năm, nhưng cho đến thời Lê – Mạc, tiếp đến thời Trịnh - Nguyễn thì Đông Kinh lại thường xuyên được nhắc bởi
cái tên: Thăng Long .
Lo sợ
lòng dân vẫn còn yêu quý Thăng Long mà không phục nhà Nguyễn, nên Nguyễn Ánh đã đổi Đông Kinh -Thăng Long thành Bắc
Thành. Tuy vậy Thăng Long lại càng được mọi người nhắc nhở nhiều hơn. Đến
năm 1806, nhà Nguyễn đổi tên BắcThành trở lại là “Thăng Long" nhưng chữ "Long"
bây giờ mang nghĩa là "thịnh vượng" chứ không mang
nghĩa "Rồng" như thời Lý đã đặt . Vào cuối năm 1802, Gia Long
cử một đoàn Sứ thần do Lê Quang Định làm Chánh sứ sang nhà Thanh xin phong
Vương và đổi tên nước Đại Việt thành
nước "Nam Việt". Nhà Thanh cho rằng tên "Nam Việt" sẽ lầm lẫn với Quốc
hiệu của Triệu Đà, nên đổi lại thành "Việt
Nam" .
Năm 1831 con trai Gia Long là Minh Mạng cải tổ bộ máy
hành chính đất nước, trong đó ông đã hạ "Trấn thành Thăng Long" xuống
thành "Lỵ sở của tỉnh Hà Nội" với quy mô cũng bị thu hẹp lại. Và Hà Nội
tồn tại từ đó cho đến nay với bao thăng - trầm của lịch sử dân tộc.
Chính cách hành xử trên đây của
nhà Nguyễn, nên nhà Nguyễn cũng nhận lấy hậu quả nặng nề. Cha con rất nhiều vợ
mà vẫn tuyệt tự. Để rồi nhà Nguyễn sụp đổ hoàn toàn và phải chạy ra nước ngoài
nương thân bỏ xác ,... Ví như Vua Minh Mạng
có tới hơn 400 vợ,142 con, rồi đến Vua Thiệu Trị cũng có 103 vợ mà không con,
phải nuôi 3 người con nuôi làm Hoàng Tử. Sau nữa, Vua Khải Định (không phải là
cháu đích tôn của Minh Mạng) có 12 vợ mà
vẫn vô sinh. Đông cung Thái Tử Vĩnh Thuỵ (tức Bảo Đại), vị Vua cuối cùng của
nhà Nguyễn - cũng là vị Vua
cuối
cùng của Triều đại phong kiến Việt Nam - Không phải là con của Vua Khải Định -
rồi cũng bỏ đất nước mà đi và chết ở đất Pháp vào ngày 31 tháng 7 năm 1997 (ngoại
ô Paris) .
6. Thời đại Hồ Chí Minh:
Nhận rõ vị trí và tầm quan trọng
của Kinh thành Thăng Long - miền Địa linh - sau Cách mạng tháng 8 năm
1945, Bác Hồ đã lập tức chọn ngay vườn
hoa Ba Đình để ra mắt Chính phủ nước Việt Nam mới (mặc dù xung quanh đây vẫn
còn rất nhiêu quân Pháp và bọn phản động chiếm giữ). Chiều ngày 2 - 9 - 1945 hàng vạn vạn người đã
tụ hội về Ba Đình dự mít tinh thực hiện "lời thề độc lập" - mở ra kỷ
nguyên Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của cả dân tộc.
Chính tại mảnh đất Ba Đình lại
mở đầu cho cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, để rồi kết
thúc bằng chiến thắng lịch sử "Điện
Biên trấn động Địa cầu" .
Ba Đình cũng là nơi phát đi lời hiệu triệu của
Bác Hồ: "Không có gị quý hơn độc lập tự do"... để rồi Thăng Long - Hà Nội lại một lần nữa đi đầu trong cuộc
kháng chiến "chống Mỹ cứu nước" góp phần cùng nhân dân cả nước "đánh cho
Mỹ cút , đánh cho Nguỵ nhào" giải
phóng miền Nam thống nhất nước nhà .
Bước vào thời kỳ đổi mới xây dựng Tổ quốc Việt
Nam ngày càng giàu mạnh. Để kế tục truyền
truyền thống lịch sử, ngay trên mảnh đất Ba Đình, ngày 20 tháng 6 năm 1998 Thủ
tướng Chính phủ đã có Quyết định số 108/1998/QĐ-TTg: "Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung của Thủ đô Hà nội đến năm
2020". Nghị quyết ghi rõ sẽ xây dựng
và phát triển Ba Đình là: "Trung tâm hành chính - chính trị Quốc gia
" - còn khu vực hồ Hoàn Kiếm là : "Trung tâm hành chính - chính trị của Thủ đô Hà Nội " .
Đây là một Quyết định đúng đắn
, đã kế thừa truyền thống của Hoàng Thành Thăng Long - Ba Đình lịch sử - anh
hùng của Thủ đô anh hùng - Thủ đô vì hoà
bình .
Những lời cuối của bài viết:
Dẫu rằng lịch sử không thiếu
gì những điều trùng lặp ngẫu nhiên vô
cùng kỳ lạ và đặc biệt lý thú ... song những điểm cụ thể đã được kể ra trên
mảnh đất thiêng Ba Đình là có thật - và được lặp đi lặp lại nhiều lần thì có thể
lại là tất nhiên, vì vậy chẳng nên
coi thường!
Lịch sử diễn ra trên mảnh đất Ba Đình, một
ngàn năm qua cho thấy: Chỉ đến khi nào đất nước ở vào thời vận suy vi, hoặc chính thể đã đến thời suy mạt thì vị trí "Trung tâm chính trị - hành chính của đất nước" mới không
xứng đáng để tồn tại trên mảnh đất này, còn nếu chính thể vẫn tốt đẹp thì không
dễ gì đổi dời! Bởi vì ở đó là sự hội tụ "hồn thiêng sông núi" trong
quá khứ - hiện tại - và tương lai. Nếu ai coi thường mảnh đất này mà chối bỏ để rời đô đi nơi khác - đặc biệt lại vì mục đích
vụ lợi - "bất chấp tất cả " thì nhất định (trước hoặc sau) họ, hoặc
gia đình họ sẽ nhận lấy hậu quả khôn lường!
Chúng ta cũng biết rằng, chẳng có gì là mãi
mãi-mảnh đất Ba Đình lịch sử và Anh hùng cũng vậy - nhưng nếu biết tôn trọng lịch
sử, rút ra bài học của lich sử và xử lý vấn đề trước - sau cho đúng đắn thì đó
là nền tảng, là đạo lý làm người trước vận mệnh của Quốc gia - Dân tộc!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Long mạch và bàn về Long mạch
Thăng Long, Vũ Hồng Thăng, sưu tâm - biên soạn - 2003
- ThăngLong-Đông Kinh-Hà Nội-Quê hương và nơi hội tụ Nhân
tài, Đặng Duy Phúc Nxb.Hnội -1996.
- Bách khoa thư Hà Nội,
Nxb. Từ điển Bách khoa – năm 2000
- 1.000 câu hỏi – đáp về Thănglong – Hànội – Nxb. Chính
tri Quốc gia – 2000
- Hoa Lư xưa và nay. Tạ Hữu Yên - Lữ Giang – Vũ Bão. Huyện Hoa Lư xuất bản – Năm
1995.
- Các Triều đại Việt Nam – Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng. Nxb. Thanh niên 2001
- Tóm tắt niên
biểu lịch sử Việt Nam. Hà Văn Thư
và Trần Hồng Đức. Nxb.Vh Thtin – 1996.
- Bái Đính ngàn năm tâm linh và huyền thoại. Trương Đình Tưởng. Nxb. Thế giới –
Năm 2008.
- Phong thủy địa lý Tả Ao (Tập 1, 2, 3). Vương Thi Nhị Mười. Nxb.Mũi Cà Mau – 2006 và 2009.