BÀI TRÍ TƯỢNG PHẬT TRONG CÁC CHÙA
VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
TS Nguyễn Mạnh Cường
Trung tâm Trắc nghiệm Tư vấn Bồi dưỡng
I.
Chùa vùng đồng bằng Bắc Bộ
Với
người Việt nói chung, người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng rất thích lên
chùa thăm tượng. Người Việt thường lên chùa gặp Phật và chư vị Bồ tát là để cầu,
để xin. Họ xin đủ thứ nhằm mưu cầu một cuộc sống bình an hạnh phúc. Họ lên chùa
với câu cửa miệng Nam mô A di đà Phật, và họ coi câu thần chú này thay cho lời
chào với những người cùng lên chùa mà không biết rằng những người này có đồng
môn với mình hay không? Cũng có nhiều người đến chùa đơn thuần là để thăm tượng
Phật được bày trong chùa mà liên tưởng tới những giáo lý của Phật giáo rất xa
xăm. Ngày nay, có nhiều người có học, có đọc tìm hiểu về Phật giáo, có nhiều
người còn thuộc tên tuổi của các vị được thờ và sớm phát hiện ra rằng Phật giáo
ở Việt Nam thông qua chùa, thông qua hình tượng Phật trong chùa thật là đa dạng
và đặc sắc. Ở Việt Nam hiện nay có đủ các loại chùa, các loại tượng Phật khác
nhau. Chùa theo dòng Đại Thừa (hay Bắc tông) ở khu vực Bắc Bộ Việt Nam; trong
khi ấy những ngôi chùa theo dòng Tiểu Thừa (hay Nam tông) đang rất thịnh hành ở
Nam Bộ. Còn ở miền Trung sau cả ngàn năm chịu ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ, nay
ngôi chùa mang nhiều dáng dấp của Phật giáo Trung Hoa. Đúng là chùa mỗi miền mỗi
vẻ, nhưng có lẽ không có ngôi chùa nào cổ kính, trang nghiêm như các chùa thờ
Phật vùng đồng bằng Bắc Bộ. Mỗi một loại hình chùa thường đi với loại bài trí
tượng khác nhau. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ bàn về bài trí tượng Phật
trong các chùa vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam.
Vùng Châu thổ
sông Hồng hay còn gọi là vùng đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi của nhiều lớp văn hóa
cổ của người Việt. Chính vì vậy mà người Việt cũng sớm tiếp xúc với Phật giáo.
Câu truyện về Bà Man Nương Phật mẫu, cùng hệ
thống các chùa Tứ Pháp là: Chùa Tổ (Mãn Xá) cùng chùa Dâu, chàu Đậu, chùa Dàn,
chùa Tướng đã tạo nên hệ thống Phật Mẫu (vừa là Phật, vừa là mẫu) rất Việt Nam.
Ngôi chùa là tên
gọi bình dân chịu nhiều ảnh hưởng của Ấn Độ, còn khi khai lý lịch cho các chùa
chúng ta thường thấy loại văn tự Hán như: Hưng Ký tự, Phúc Nghiêm tự, Kim Liên
tự… Tương tự như vậy, khi nói về Đức Phật, người miền Bắc gọi là Phật, còn người
miền Nam thường gọi Bụt (Buddha). Nên thực chất dù là Phật, dù là Bụt thì cũng
vẫn để chỉ Đức Phật mà thôi.
Chùa
của người miền Bắc thường có nhiều yếu tố kiến trúc những chỉ cần Tam bảo nơi để
tượng Phật đủ gọi là chùa. Tam bảo gồm 3 gian nhà là Tiền đường, Thiêu hương,
Thượng điện (hay Phật điện).
II.
Các lớp tượng cơ bản trên Phật điện
Phật điện chùa
thường có 4 lớp tượng Phật và nhiều ban thờ Phật và Bồ Tát khác. Bốn lớp tượng
Phật đó là
1. Tượng Tam Thế
Lớp trên cùng, ở
chỗ giáp vách gần nóc nhà, có ba pho tượng nhỏ để ngang một dãy, khuôn khổ bằng
nhau, hình dáng giống nhau, gọi là tượng Tam thế. Tam thế là nói tổng hợp hết
thảy Chư Phật ở đời quá khứ, đời hiện tại và đời vị lai, tức là chỗ chung cả
các cõi Phật trong mọi thời gian.
2.
Lớp tượng Di Đà tam tôn
Lớp tượng thứ hai có ba pho tượng lớn: Pho tượng ngồi giữa
là tượng đức Di Đà, pho tượng đứng bên trái là tượng Đức quan Thế Âm, pho tượng
đứng bên phải là tượng Đức Đại Thế Chí. Ba pho tượng này thờ đức Phật và hai đức
bồ tát ở Tây phương cực lạc, chủ việc cứu độ chúng sinh. Tuy cõi cực lạc là cõi
Phật, nhưng có duyên với cõi sa bà là cõi trần của chúng ta, cho nên để gần hơn
lớp tượng Phật tam thế.
3.
Tượng đức Thích Ca giáo chủ
Lớp thứ
ba có ba pho tượng lớn: Pho tượng lớn ngồi giữa là đức Thích Ca mầu ni, pho tượng
ở bên tả hoặc đứng trên toà sen, hoặc ngồi trên con sư tử xanh, là tượng đức
Văn Thù bồ tát, pho tượng bên hữu hoặc đứng trên toà sen, hoặc ngồi trên con
voi trắng là tượng đức Phổ Hiển bồ tát.
Ở lớp thứ ba này có nhiều chùa làm tượng Thích
ca mầu ni ngồi cầm hoa sen, gọi là tượng niêm hoa để ở giữa, bên tả là tượng Ca Diếp tôn giả vẻ
mặt già, bên hữu là tượng Át Nan đà tôn giả vẻ mặt trẻ, là hai vị đại đệ tử của
Phật Thích ca lúc còn ở thế gian. Tượng hai vị tôn giả ấy đều tạc đứng, hình
dáng hai người tỳ kheo.
Lớp này thờ đức Phật làm giáo chủ ở sa bà thế
giới và các vị bồ tát giúp Phật mà giáo hoá chúng sinh, cho nên để gần ở ngoài.
4.
Tượng Cửu Long:
Lớp thứ tư có pho tượng Cửu Long để giữa. Tượng
này làm theo điển nói khi đức Thích ca mầu ni mới giáng sinh, có chín con rồng
xuống phun nước cho ngài tắm, đoạn rồi ngài bước đi bảy bước... tay trái chỉ
lên trời, tay phải chỉ xuống đất mà kêu lên rằng: Thiên thượng, địa hạ, duy Ngã độc tôn. Có nghĩa là: Trên trời, dưới đất
chỉ có ta là tôn quý hơn cả.
Bởi vậy tượng Cửu Long làm chín
con rồng vây bọc xung quanh và ở trên những đám mây có chư Phật, chư Thiên, nhã
nhạc, cờ phướn và bát bộ kim cương, ở giữa có pho tượng nhỏ, đứng một tay chỉ
lên trời và một tay chỉ xuống đất. Đó là tượng Đức Thích ca mầu ni lúc sơ sinh.
Bên trái tượng Cửu Long có tượng
Đế Thích ngồi ngai mặc áo đội mũ hoàng đế, bên hữu có tượng Đại Phạn Thiên cùng
một kiểu như tượng Đế Thích. Đó là theo hai điển nói hai vị Đại Thiên Vương này
làm chủ tể ở cõi sa bà thế giới và lúc nào cũng hộ trì đức Thích Ca khi ngài
chưa thành Phật. Sa bà thế giới tức là cõi đời ta đang sống, cho nên mới để tượng
Cửu Long và tượng Phạm Thiên Đế Thích ở lớp ngoài cùng.
Những chùa thường, ở trong điện
thờ Phật chỉ bày có thế thôi. Còn những chùa rộng lớn thì bày thêm hai lớp tượng
nữa, được trình bày trong mục tiếp theo.
III. Các bộ tượng
đi kèm trong chùa
Tứ Thiên Vương: Ở ngoài tượng Cửu Long còn bày bốn pho tượng tứ Thiên Vương mặc áo vương phục,
bày làm hai dãy đối nhau, tức là bốn vị hộ thế.
Tượng Tứ Bồ tát: Có chùa bỏ tượng tứ Thiên Vương mà bày bốn vị Bồ Tát, tạc hình thiên thần:
gọi là Ái bồ tát, tay cầm cái tên ; Sách Bồ tát, tay cầm cái dây; Ngữ Bồ
tát, tay cầm cái lưỡi; Quyền bồ tát, tay nắm lại và để vào ngực.
Tượng bát bộ kim cương: Có nhiều chùa tạc tượng tám vị kim cương, là thần tướng trên trời, thường gọi
là bát bộ kim cương: Thạch trừ tai kim cương, Tích độc thần kim cương, Hoàng
tùy cầu kim cương, Bạch tinh thủy kim cương, Xích thanh hỏa kim cương, Định trừ
tai kim cương, Tử hiền kim cương, Đại thần lực kim cương.
Bốn vị bồ tát và tám vị kim
cương này, theo những điển ở trong kinh, thì có nhiều thuyết khác nhau, song đại
ý nói những bậc thần đã phát bồ đề tâm, đem thân lực mà hộ Phật pháp.
Theo cho đúng quy ước, thì ở
trong điện thờ Phật phải bày như thế mới có ý nghĩa. Vì rằng Chư Phật là bậc đại
giác viên mãn đã xuất thế gian rồi, thì ở xa trên cùng. Đức phật A di đà chủ việc
cứu thế ở cõi cực lạc và Đức Phật Thích ca mầu ni chủ việc giáo hóa ở cõi Sa
bà, thì để chính giữa điện. Các vị bồ tát là các vị có lòng từ bi bác ái đem
trí tuệ và chân lý mà giúp Phật trong việc cứu độ chúng sinh, thì để hai bên cạnh
Phật. Còn những bậc ở trong thế gian mà có thần uy thế lực như các vị Thiên
vương và có sức mạnh rất lớn như các vị Kim Cương, thì để ở ngoài cùng để hộ
trì Phật pháp.
IV. Các loại hình Tượng cơ bản trong chùa
Chúng ta nên biết rằng trong chư Phật, chư
Bồ tát thờ các chùa Việt Nam, chỉ có tượng Đức Thích Ca và Đức Quan Thế Âm là
có nhiều hơn cả.
Tượng đức Thích ca có 4 kiểu như sau:
-
Tượng
Cửu Long tạc theo điển tích lúc Phật sơ sinh.
-
Tượng
Tuyết Sơn tạc theo kiểu đức Phật Thích Ca tu hành khổ hạnh. Hiện nay ở ngoài
Bắc, chùa Tây Phương thuộc huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội, có tượng Tuyết Sơn
tạc rất khéo, và chùa Bút Tháp thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, có pho
tượng Tuyết Sơn cũng rất đẹp.
-
Tượng
thuyết pháp hay tượng niêm hoa tạc theo điển lúc Đức Thích Ca thành Phật.
-
Tượng
Niết bàn tạc theo điển lúc đức Phật Thích Ca nằm nghiêng về phía bên trái. Kiểu
này ở nước ta không nhiều, chỉ có bên Lào và Thai Lan, thuộc phái Nam tông mới
có nhiều.
Tượng Quan Thế Âm có 6 kiểu như sau:
-
Quan
Âm Chuẩn đề, theo đúng trong sách thì phải làm 3 mắt 18 tay cầm pháp bảo, nhưng
thường chỉ làm có nhiều tay thôi.
-
Quan
Âm ngàn mắt ngàn tay, tạc theo điển bà Diệu Thiện, nhưng thường chỉ làm 100 tay
hay vài trăm tay là cùng. Chỉ có tượng Quan Âm chùa Bút Tháp, thuộc tỉnh Bắc Ninh,
là được làm đúng chuẩn ngàn mắt ngàn tay. Song cũng xin lưu ý đây là tượng Quan
Âm quá hải chứ không phải là Quan âm ngàn mắt ngàn tay.
-
Quan
Âm đội mũ ni, hoặc đứng hoặc ngồi trên tòa sen, tay cầm lọ nước cam lộ và cành
dương liễu.
-
Quan
Âm tọa sơn tạc theo kiểu ngồi trên núi đá.
-
Quan
Âm tổng tử hay Quan Âm Thị Kính, tạc theo điển nàng thị Kính, người nước Cao
Ly, lấy chồng là Thiện sĩ, bị chồng ngờ là thất tiết, nàng bèn cải nam đi tu,
pháp danh là Kinh Tâm, lại bị Thị Mầu đổ oan tình cho, nàng phải nuôi một đứa
trẻ thơ, sau được chứng chính quả thành Phật. Tượng tạc theo lối ngài ngồi bế
theo đứa bé ở bên cạnh có con vẹt đậu trên núi đá. Con vẹt ấy là hậu thân của
Thiện Sĩ.
-
Tượng
Quan Âm quá hải ở Chùa Bút Tháp là dạng tượng ngàn mắt ngàn tay ngồi bên trên.
Bên dưới có con quỷ đội toà sen đưa Đức Quán Âm qua biển Nam Hải; vì vậy mới
gọi là Quán Âm quá hải.
Những tượng Quan âm ở nước ta thường là nữ
tướng cả chỉ có tượng Chuẩn đề và tương Thiên thủ thiên nhãn là không phân biệt
nam hay nữ.
Tượng Hộ Pháp
Ở nhà Bái đường là nhà ngang với điện thờ
Phật, các chùa thường có hai pho tượng rất lớn, mặc áo giáp đội mũ trụ, cầm
binh khí, hình dáng như hai võ sĩ rất dữ tợn, hoặc đứng hoặc cưỡi trên hai con
sấu. Đó là hai tượng Hộ Pháp, bên tả là vị khuyến thiện, bên hữu là vị trừng ác.
Người ta thường gọi tắt là Ông Thiện và Ông Ác. Những điển nói về hai ông Hộ
Pháp này có nhiều chỗ khác nhau. Nhưng chung quy cũng là hai vị thiên thần có
sức mạnh chuyên coi việc hộ trì Phật Pháp.
Những chùa thật cổ chỉ làm có một vị Hộ
Pháp gọi là Vị đà thiên tướng quân, tức là một vị thiên tướng vâng sắc chỉ của
Phật hộ trì phật pháp trong 3 châu là Đông châu, Tây châu và Nam châu, cho nên
người ta thường gọi là Tam châu hộ pháp.
Động thập điện: Tại gian Bái đường những chùa lớn
thường làm ở vách hai bên tả hữu mười cái động ở âm ty, gọi là động thập điện.
Đáng lẽ nên để tượng 18 vị La Hán ở hai bên nhà bái đường, mà để trong thập
điện ở hai bên dãy hành lang thì mới đúng, vì các vị La Hán là đệ tử của Phật,
vâng sắc lệnh của Phật ở lại thế gian mà gửi Phật pháp. Nhưng có lẽ vì không đủ
chỗ, cho nên mới để các vị La Hán ở ngoài hành lang và để ở động thập điện vào
nhà bái đường. Những động này thường làm theo điển đã nói ở trong kinh Địa tạng
bản nguyện, phô bày những hình phạt ở âm ty để trừng giới những kẻ gian ác.
Trong các động ấy có tượng các vua diêm vương, các phán quan cùng các ngục tốt
là quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa rất là hung tợn và bày ra các ngục hình, như bàn
chông, vạc dầu…rất ghê rợn.
Sách nhà Phật nói rằng: ở dưới âm ty có 10
ông vua coi 10 điện, gọi là thập điện diêm vương. Mười ông vua ấy là:
Tân Quảng Vương,
coi điện thứ nhất.
Sở Giang Vương,
coi điện thứ hai.
Tống Đế Vương,
coi điện thứ ba.
Ngũ Quan Vương,
coi điện thứ tư.
Diên Là Vương,
coi điện thứ năm.
Kiến Thành Vương,
coi điện thứ sáu.
Thái Sơn Vương,
coi điện thứ bảy.
Bình Đẳng Vương,
coi điện thứ tám.
Đô Thị Vương,
coi điện thứ chin.
Chuyển Luân Vương,
coi điện thứ mười.
Theo các điển trong sách, hễ người nào
chết, thì linh hồn phải qua 10 điện ấy để Diêm Vương xét hỏi các công đức và
các tội lỗi mà định sự thưởng sự phạt theo cái nghiệp báo của người ấy.
Chùa nào có động thập điện thì hay để
riêng ra một chỗ ở đằng sau điện thờ Phật. Cũng có nhiều chùa không làm thành
động chỉ làm tượng 10 vị Diêm Vương và đặt ban thờ hoặc ở hai bên điện thờ
phật, hoặc ở hai bên nách bái đường, mỗi ban để thờ năm vị.
Tượng La Hán
La Hán là do chữ Phạn A La Hán là những
bậc đã tu đến chỗ không sinh, không tử, không có gì phải học nữa, cho nên có
nghĩa là vô học, hay là vô sinh và lại có nghĩa là sát tặc, tức là nói giết
được cái giặc phiền não.
Ở chùa bên Tây Tạng, bên Tầu và Việt Nam
thường làm 18 vị La Hán nhưng trong các sách chỉ nói có mười sáu vị mà thôi.
Sách Pháp Trụ kí chép rằng: Mười sáu vị La Hán vâng sắc mệnh của Phật ở lại thế
gian mà thủ hộ chính pháp, đến nay vẫn chưa nhập diệt.
Mười sáu vị la hán ấy là:
1. Tân độ la Bạt na
roa xa Tôn giả (Pindola Bharadvaja)
2. Ca nặc ca Phạt
xa Tôn giả (Kanakavatsa)
3. Ca nặc ca Bạt lị
noa xa Tôn giả (Kanaka Bhadradvaja)
4. Tô tần đà Tôn
giả (Snivinda)
5. Nặc cự la Tôn
giả (Nakula)
6.
Bạt đà Tôn giả (Bhadra)
7. Kalica Tôn giả (Karika)
8. Phạt xa la phất
đa la Tôn giả (Vajravutra)
9. Thú bác ca Tôn
giả (Svaka)
10. Bán thác ca Tôn
giả (Panthaka)
11. Ra hộ la Tôn giả
(Râhula)
12. Na ka tê na Tôn
giả (Nagasena)
13. Nhân kết đà Tôn
giả (Ingata)
14. Phạt na bà tư
Tôn giả (Vanavâsin)
15. A thị đa Tôn giả
(Ajita)
16. Chú đồ bán thác
ca Tôn giả (Cudapanthaka)
Tương truyền rằng tượng 16 vị La Hán này
là do người Quán Hưu đời nhà Lương nằm chiêm bao thấy mà vẽ ra.
Sách La Hán đồ tán tập vẽ 18 vị, là thêm
một vị tên là Khãnh Hữu Tôn giả và một vị tên là Tân Đồ Lư. Người ta cho Tân Đồ
Lư chính là Tân độ la Bạt ra nọa xa, nhưng chỉ lấy hai chữ tên tự ở trên dịch
hơi sai âm của tiếng Phạn và bỏ mấy chữ tên họ ở dưới đi, mà đặt ra một vị
khác. Còn Khánh Hữu là dịch theo tiếng Nam đề mật đa la là tên người làm bộ
sách Pháp
trụ ký vào khoảng 800 năm sau khi Phật Thích ca nhập Niết Bàn.
Lại có thuyết nói: Họ Trương ở Kim Thủy,
đất Thục, vẽ tranh 18 vị La Hán và Tô Đông Pha làm bài tụng tán. Theo thuyết
này thì hai vị thêm vào sau là Ca Diệp tôn giả và Quan đồ bất thần Tôn giả.
Bên Tây Tạng, thì tương truyền rằng hai vị
sau là Ma gia phu nhân và Di Lặc.
Vậy theo đúng trong sách, thì chỉ có 16 vị
mà thôi, còn hai vị nữa là người đời sau người ta nhận lầm mà thêm ra và không
biết đích xác là danh hiệu người nào.
Dù sao đi chăng nữa thì có nhiều pho tượng
La Hán được làm rất nghệ thuật chứng tỏ tay nghề điêu khắc hội họa của những
người thợ thủ công Việt Nam cũng đạt tới một trình độ cao, hiện nay còn nhiều
chùa có nhiều tượng La Hán rất đẹp và đôi khi thấy có cả những bức tranh vẽ các
vị La Hán.
Tượng tổ tây: Trên bàn thờ các vị tổ trên tăng
đường, thường có một pho tượng tạc chân dung người Tây trúc (Ấn Độ), mũi cao,
tóc quăn, râu quai nón, tục gọi là đức tổ Tây hay tổ Đạt Ma.
Chính pháp danh của ngài là Bồ đề đạt ma
(Bodhidharma), người dõng dõi quý tộc ở phía nam Ấn Độ, xuất giá tu hành đạo
Phật và chuyên về môn thiền (Dhyana). Năm Phổ thông nguyên niên (520) đời vua
Võ Đế nhà Lương, ngài đi đường biển sang Quảng Châu. Vua Lương Võ Đế mời ngài
vào kinh đô ở Kiến Nghiệp tức thành Nam Kinh bây giờ. Ngài vào yết kiến vua Võ
Đế, nhưng thấy vua không hiểu đến chỗ mầu nhiệm của đạo Phật. Ngài bèn qua sông
Dương Tử, sang nước Bắc Ngụy, trụ trì chùa Thiền Lâm, tu pháp tham thiền, suốt
ngày ngồi nhìn vào vách. Tương truyền rằng Bồ Đề Đạt Ma là tổ thứ 28 của phái
Thiền tông bên Ấn Độ, sang Tầu làm sơ tổ ở cõi Đông Thổ, truyền đạo pháp và áo
cà sa cho đệ tử là Tuệ Khả làm đệ nhị tổ. Ngàitích vào ngày rằm tháng mười năm
Đại Thông thứ hai (530) đời vua Võ đế nhà Lương.
Nhìn chung, chúng tôi chỉ mới lựa chọn một
số bộ tượng cơ bản của đạo Phật còn lưu trong các ngôi chùa vùng đồng bằng Bắc
Bộ để giới thiệu cùng bạn đọc. Rất có thể còn nhiều vấn đề khác mà chúng tôi
chưa kịp giới thiệu với mọi người mong nhận được sự thế tất..
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét