TỤC THỜ ĐÁ - KÌ
THẠCH VÀ VẤN ĐỀ THẠCH ĐẠO VIỆT
Lê Mạnh Tuấn[1]
Sau một thời gian dài nghiên cứu tục
thờ Đá ở Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng, cũng như sưu tầm nghiên cứu kì
thạch Việt cùng các bộ môn khoa học khác như: Kinh dịch, Chu dịch, Cảm xạ, Nhân
điện và cách sử dụng Đá. trong các tôn giáo, lễ giáo, chúng tôi nhận thấy vai
trò của đá trong nền văn hóa Việt nói chung và văn hóa đá Việt nói riêng là vô
cùng quan trọng và tính ứng dụng rất cao mang bản sắc đặc thù. Để hệ thống mang
tính chính luận xin trình bày một số kết quả như sau: Vai trò của Đá trong cuộc
sống; 'I'ục thờ Đá ở Việt Nam và một số nước khác; Kì Thạch Việt; Xây dựng Bộ
môn Thạch Đạo Việt và ứng dụng trong cuộc sống.
1. Vai trò của đá trong cuộc sống
Từ khi Trái Đất được hình thành còn
trong hệ hỗn mang - nguội dần - Đá được hình thành các tạp chất - cùng tỉ trọng-
cùng tính chất hóa lý tụ về với nhau và hình thành "thạch quyển" trên
bề mặt trái đất, trên đó các sinh vật được sinh sôi phát triển trong môi trường
đó. Có thể nói từ khi loài người biết đi, biết nói "ngôn ngữ", biết
kiếm ăn và hình thành các tộc người, mặt đất Đá tương đối hoàn chỉnh trên bề mặt
hành tinh Trái Đất của chúng ta, thạch quyển đã tương đối ổn định, có núi, có
sông, có đồng bằng và các bình nguyên. Mặc dù vậy nó vẫn âm thầm biến đổi theo
thời gian và thỉnh thoảng lại thay đổi mang tính vĩ mô (như chuyển dời các lục
địa), vi mô (như động đất, núi lửa...). Đá lúc này đóng vai trò là điểm tựa
tinh thần (hang động, dụng cụ) và thời kỳ đồ đá là thời kỳ dài nhất trong thời
kỳ phát triển loài người.
Đá còn là nguồn nguyên liệu phát triển
nền văn minh loài người. "Đá có trong tất cả, tất cả có trong Đá"
. Ta cũng biết các kim loại, động thực vật... đều từ đá mà ra. Các đền đài, các
công trình văn hóa, toàn bộ các thành phố lớn bé, nhà ở, các công trình giao
thông đều dùng đến nguyên liệu từ Đá. Toàn bộ các máy móc thiết bị phục vụ cho
công nông nghiệp, cho sự phát triển văn minh của loài người bắt nguồn từ tài
nguyên khoáng sản trong Đá.
Những nét tiêu biểu của nền văn minh
trên thế giới, Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng như nền văn minh Inca Ai Cập,
Trung Quốc...tồn tại qua năm tháng còn lại đều là Đá...Ta có thể nói "Đá có
trong tất cả, tất cả có trong đá".
2. Tục thờ Đá
Ban ngày con người đi kiếm ăn, tối về ngủ
trong hang hay dựa vào vách đá để nghỉ ngơi. Đá lúc này sẽ che chở bảo vệ con
người trước thời tiết khắc nghiệt, trước mưa giông, sấm sét, lụt lội... Càng
ngày con người càng phát triển và thông qua đá để tìm ra lửa, chuyển đối một
giai đoạn phát triển của văn minh loài người.
Trước thiên
nhiên khốc liệt như mưa bão, lũ lụt đặc biệt là sấm sét, hay động đất, sóng thần...
qua kinh nghiệm từ đời nọ sang đời kia con người thấy đến với tài nguyên Đá được
yên lành hơn. Thậm chí tài nguyên này đã được huyền thoại hóa và khi con người
đến với nó thì tính linh nghiệm của Đá được thực hiện. Dần dần xuất hiện tục thờ
Đá, con người gửi gắm niềm tin, thậm chí ước mong vào Đá. Huyền thoại Đá cùng với
Đạo Mẫu ngày càng phát triển.
Trong thuật ngũ hành Đá thuộc hành thổ (theo
nghĩa rộng), Thổ là đất mẹ là nơi nuôi sống con người, cho con người nguồn tài
nguyên để phát triển. Đất có tính chất đặc biệt mà các ngũ hành khác không có:
Đất không bao giờ nổi giận - Đất mẹ luôn bao dung và che chở cho muôn loài. Đất
mẹ nhẫn nại chịu đựng, luôn luôn có lòng vị tha, vì vậy hết đời nọ sang đời
kia, Đá chính là (Trời cho Đất nhận) tượng của Đất. Đồng thời theo nghĩa rộng,
Đá thuộc hành Thổ luôn đứng ở vị trí trung tâm của ngũ hành điều này lí giải tại
sao con người lại có tục thờ Đá và được gắn với tục thờ Mẫu ở Việt Nam nói
riêng và vùng Nam Á nói chung.
Trong các tôn giáo lớn đặc biệt là tôn
giáo: Phật giáo, Công Giáo, Islam đều gắn bó với đá. Đá được sử dụng làm nguyên
liệu để xây dựng đền đài, miếu mạo, Đá được dùng để tác tạo tượng người, tượng
thú mà loài người suy tôn trong tín ngưỡng của mình. Đá Mã Não nằm trong thất bảo
của nhà Phật đứng ngôi thứ 6 tạo ra chất Phật. Đá được phong thánh, từ "pero"
chính là hòn đá tảng, trong Công giáo với Đạo giáo, Đá được dụng với tượng
trưng như địa vị, chức tước.
Ở thế kỷ XIV tại Châu Âu, Công giáo
đang hưng thịnh người ta đã xây dựng một vườn địa đàng mà ở trong đó Đá được sử
dụng như một phép màu trong việc tu luyện, đồng thời Đá cũng được sử dụng để chữa
bách bệnh. Ở Việt Nam do địa hình, địa mạo, từ xa xưa người Việt đã đến với Đá
như một chỗ dựa mang tính tinh thần, mang tính tôn giáo (có lễ nghi), và từ đời
nọ nối tiếp đời kia đến với Đá được an
lành, được che chở, được gửi gắm và cầu nguyện, tin rằng nếu chân thành sẽ được
linh ứng. Cũng từ đó người ta coi Đá là điểm tựa về mặt tâm linh, và song hành
với tục thờ Mẫu thì tục thờ Đá cũng ra đời.
Ta có thể thấy tục thờ Đá hiện nay biểu
hiện còn lại ở các vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trong các hang động
... Tiêu biểu là vùng Nam Trung Bộ, ở vùng đồng bào dân tộc Chăm có tục thờ các
bộ phận sinh dục của đàn ông, đàn bà trong tín ngưỡng "phồn thực" các viên Đá mang hình người
mang biểu tượng như thần đất, thần rừng, được thờ để cầu mùa màng bội thu cuộc
sống no ấm. Điển hình là chùa Hương, tại động chính có những khối thạch nhũ
mang ý nghĩa tâm linh được huyền thoại hóa với tục thờ Mẫu như "đụn gạo" "cây vàng" "cây bạc" đã đi vào đời sống tâm
linh từ ngàn năm nay. Ở Lạng Sơn có nàng "Tô
Thị", ở Thanh Hóa có "hòn
vong phu"...Và mang đậm tính tâm linh hơn là khu di tích Đền Sinh, Đền
Hóa tại thôn An Mầu, xã Lê Lợi, Huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nơi đây thờ khối
đá hình người phụ nữ đang sinh nở. Tương truyền là dấu tích của Đức thánh Phi Hồng.
Tại đây ai hiếm muộn về đường con cái, thành tâm làm lễ cầu tự thì đến 70% được
toại nguyện (báo Khoa học và Đời sống ngày 26/6/2012). Tại khi di tích thành Cổ
Loa, Hà Nội có am thờ một viên đá cụt đầu gọi là am Mị Châu. Ai thành tâm cầu
duyên đều được toại nguyện (Báo Khoa học và Đời sống ngày 24/7/2012). Tại xã
Vân Hòa, Ba Vì, Hà Nội có dãy núi mang hình bộ ngực khổng lồ của người phụ nữ.
Xuống phía dưới là một cái giếng đá mà theo tiếng Mường cổ có tên Phò Ché quanh
năm đầy nước trong khi cả vùng bị hạn hán. Theo quan niệm dân gian, nếu lấy nước
ở giếng đó về dùng trong ăn uống sẽ được khỏe mạnh và ngăn được bệnh tật. Nhưng
nếu vi phạm sẽ bị trừng phạt (có một người đàn ông đến Giếng cởi quần áo tắm và
ngay lập tực bị một bệnh lạ đã chữa ở nhiều nơi nhưng bệnh không khỏi). Vì thế
Giếng này càng thiêng hóa và đi vào tín ngưỡng của khu vực (báo KHĐS ngày
5/6/2012). Còn rất nhiều tư liệu khác miêu tả tục thờ Đá, sự kính trọng Đá mang
tính tâm linh ở khắp các miền đất nước, đã và đang tồn tại từ xa xưa được linh ứng
hóa, huyền thoại hóa...song hành với các lễ nghi tập tục khác trong sự phát triển
văn hóa tâm linh ở Việt Nam. Ta có thể nói tục thờ Mẫu là hình thức thờ cúng đặc
trưng của các dân cư nông nghiệp, thể hiện lòng kính trọng với quyền năng sinh
sản và lòng biết ơn tổ tiên. Tín ngưỡng thờ Mẫu thuần túy là trong các phủ: Phủ
Dầy, Phủ Sòng, Phủ Tây Hồ. Thờ Mẫu còn gắn với các tín ngưỡng khác. Đền Mẫu thường
nằm bên cạnh hoặc sau điện thờ Phật thờ các vị anh hùng dân tộc. Tín ngưỡng thờ
Mẫu cũng có mối quan hệ và nhiều khi đồng nhất với tín ngưỡng thờ Đá hay có
liên quan đến tục thờ Đá ví như hình thức thờ: "Kì thạch phu nhân" của vùng Nam Trung Bộ hay truyền thuyết Hai
Bà Trưng sau khi chết linh hồn kết thành Đá trôi theo dòng đến Thăng Long được
dân làng Đồng Nhân vớt lên...(tượng thờ Phật Bà được đào thấy ở chùa Bà Đá).
Chúng ta biết tất cả những khối Đá dược
sùng kính đi vào đời sống tâm linh đều là nhưng viên Đá nguyên vẹn (con người
chưa tác động) do trời đất sinh ra qua năm tháng được mài giũa của mưa gió, nhiệt
độ mang hình hài có tính nghệ thuật cao, có quyền uy trong đời sống tâm linh của
người Việt.
Điều đặc biệt không một viên đá nào giống
nhau. Mỗi viên có một nghệ thuật sắc thái riêng đi sâu vào tiềm thức con người
trong tục thờ Đá. Như vậy, rõ ràng Đá ứng với câu “Trời sinh hình, Đất sinh tượng”, mà Đá là tượng tức là mang một
thông điệp tâm linh khác nhau (như đã nêu ở trên).
Mỗi viên Đá là một tiểu vũ trụ, ở đây ẩn
chứa bao thông tin cấu trúc vật chất, năng lượng đặc thù (mà chỉ chiêm nghiệm
theo thời gian) hình dạng màu sắc nghệ thuật, nghệ thuật của thiên nhiên được gọi
là Kì Thạch. Ở đây chữ Kì được hiểu là kì lạ, kị dị, kì công.
3. Kì Thạch
Tất cả những viên Đá nói chung hay một
tập hợp những viên đá trong hang động, ở bãi đá được huyền thoại hóa để đưa vào
đời sống tâm linh trong tục thờ Đá đều gần như nguyên vẹn và nó mang tính trường
tồn. Vì thế nó được đưa vào tín ngưỡng để tồn tại đến ngày nay và được gọi là
Kì Thạch. Kì Thạch là con đẻ của Đá, là thông điệp của thiên nhiên.
Thông qua những viên Đá có tính nghệ
thuật cao như hình người, hình thú, thậm chí hoa văn trên Đá có cả nội dung của
một câu chuyện. Sự hình thành ra Kì Thạch phải mất vài chục nghìn năm, thậm chí
hàng trăm triệu năm. Kì Thạch Việt Nam có tất cả trong các tập địa chất như ru
bi, saphia, đến bán quý như caseđôn, mã não, thạch anh…cho đến các tập khoáng vật
và kể cả đá vôi. Để đánh giá Kì thạch phải dựa vào 6 tiêu chí sau đây:
Tiêu
chí 1:
Hình – Tiêu chí này thể hiện tính nghệ thuật của viên Đá, chủ đề của viên Đá muốn
nói, ví như có viên Đá hình người, hình mãnh sư, thậm chí hình một triết nhân
trầm tư.
Tiêu
chí 2:
Thể - Nói lên cấu trúc của viên Đá. Tuổi địa chất của viên Đá. Nơi viên đá được
sinh ra.
Tiêu
chí 3.
Màu – Đá có tất cả các màu. Trong cùng một loại đá cũng có các màu khác nhau,
nói lên giá trị của viên đá.
Tiêu
chí 4.
Chất – nói lên bản chất cấu tạo của viên đá (giá trị của viên đá, độ trong, độ
cứng càng cao, độ đồng đều càng cao thì giá trị viên đá càng lớn) thường lấy độ
cứng theo thang Mohs – kim cương là 10. Như rubi, saphia có độ cứng là 9, thạch
anh có độ cứng là 7…
Tiêu
chí 5.
Hoa văn – là hình vẽ trên đá do các lớp vật chất khác nhau tạo nên. Hoa văn họa
tiết càng đẹp càng gần với các huyền thoại hay truyền thuyết thì giá trị viên
đá càng lớn được gọi là Kì thư.
Tiêu
chí 6.
Độ hi hữu – Hay là độ hiếm có, càng độc về hình, về chất, thì giá trị càng cao.
Tiêu chí này cũng thể hiện cái duyên của người đến với Đá (quý vật tìm quý
nhân).
Ở Kỳ Thạch sự hấp dẫn đầu tiên là nghệ
thuật, nghệ thuật thiên tạo, và kì lạ bởi không có viên đá nào giống viên đá
nào. Ở một viên đá với góc nhìn khác nhau dù một thể đứng hay thể nằm đã cho những
nội dung nghệ thuật khác nhau. Đấy chính là sự hấp dẫn của nó. Không phải bỗng
dưng người ta không dùng từ xem Đá mà dùng từ thưởng lãm. Kì Thạch là nghệ thuật
của nghệ thuật, nó có cái đẹp về hình, cái đẹp về chất, về màu, lại mang nội
dung văn hóa và tính giáo dục khác nhau nhưng đều do thiên tạo.
Thưởng lãm một tác phẩm Kỳ Thạch cho
ta suy tưởng sự hình thành tạo ra nó. Rồi khám phá những thông điệp mà Đá muốn
nói của một viên Đá hoặc một cụm Đá. Bản chất của Đá là vô ngôn, tĩnh lặng,
nhưng Đá càng không nói con người càng muốn khám phá, có những viên Đá tình cờ
giống người, giống thú, giống một bức tranh. Tất cả tạo nên những thông điệp
sâu sắc. Chẳng hạn viên Đá hình Mẫu tử. Khi ngắm Đá cho ta suy nghĩ về cuộc sống
“chữ hiếu” phải đặt lên hàng đầu.
Đặc điểm cơ bản của đá là cứng rắn và
có tính trường tồn theo thời gian. Con người đến với đá “Kì Thạch” ngoài tính nghệ thuật, tính giáo dục có thể phải dựa vào
đó và coi như có một vị thần đang ở trong Đá tạo ra (phần sau sẽ trình bày tại
sao).
Kì Thạch là con đẻ của Đá, mà Đá là đặc
trưng cơ bản của núi (núi đá). Mà nói Đá là chốn linh thiêng là nơi thông linh
giữa Trời và Đất. Cho nên Kì Thạch là phương tiện để truyền đạt những mong muốn
của con người với các thế lực siêu nhiên khác. Đấy chính là sự hấp dẫn, sự sùng
bái (nếu hiểu biết) với Đá nói chung và Kì Thạch nói riêng.
Một viên đá khi đạt được 6 tiêu chí
(thiên nhiên nuôi dưỡng tại hiện trường) được con người tôn tạo (trong bộ sưu tầm
của cá nhân) thì trở thành một tác phẩm Kỳ Thạch có giá trị. Ở đây, ta hiểu rằng
sự tôn tạo nuôi dưỡng, sự lược bỏ phần thừa của một tác phẩm không được quá 20%
phải đảm bảo tính bản quyền của thiên nhiên, sau đó dày công nuôi dưỡng để
thành một tác phẩm có chủ đề hoặc một cụm tác phẩm để phản ánh nội dung.
Bản thân một viên đá đạt được (6 tiêu
chí) có ý nghĩa giáo dục (văn hóa) như mẹ con, thầy trò. Nó còn có năng lực đặc
thù do hấp thu năng lượng từ vũ trụ và từ lòng đất sau một thời gian dài kể từ
khi nó được sinh ra. Cùng với sự tương tác giữa các lớp vật chất khác nhau tạo
ra năng lượng đặc thù của nó. Nếu ta hiểu biết Đá, nếu Đá được đặt đúng chỗ (nhất
vị, nhì hướng) đúng với đối tượng con người và không gian sinh tồn thì phát huy
hết tác dụng của nó, giúp cho chủ nhân (người), chủ thể (không gian) có Đá, hiệu
quả sẽ được một năng lượng tốt (năng lượng được hiểu là khí và tia).
4. Kì thạch và vấn đề xây dựng bộ môn Thạch Đạo Việt
và ứng dụng.
Được thừa hưởng tục thờ đá của ông cha
để lại, nghiên cứu, tìm hiểu thêm cho ta thấy một số vấn đề như sau:
a/ Tất cả các mẫu Đá (tác phẩm) được
thờ hoặc được sưu tầm đều giữ nguyên hình hài và mang những thông điệp sâu sắc
ví như huyền thoại theo sau nó mang lại.
b/ Đá gắn bó với đời sống tâm linh sâu
đậm và được truyền từ đời nọ sang đời kia. Tục thờ Đá của tín ngưỡng người Việt
đồng thời hòa đồng và tôn vinh các lễ nghi tìn ngưỡng khác như thờ Mẫu, thờ các
anh hùng, danh nhân, thậm chí hòa trong Phật giáo. Đạo giáo mà không làm mất đi
bản sắc riêng của Đá. Chưa kể Đá được chế tác hình người, hình thú để phục vụ
các mục đích tôn giáo.
c/ Thời gian sinh ra Đá có trước loài
người, giá trị lớn nhất của Đá là tính trường tồn. Những di sản xa xưa còn lại
đến ngày nay qua bao tháng ngày là Đá và nó còn trường tồn tiếp tục với thời
gian.
d/ Bản thân Kì Thạch ngoài giá trị nghệ
thuật, giá trị văn hóa và vị trí trong đời sống tâm linh của cư dân nam Á nói
chung và Việt Nam nói riêng, mỗi loại kỳ thạch (theo 6 tiêu chí) có những năng
lượng đặc thù riêng được gọi là linh khí mà Kì Thạch tích tụ được qua quá trình
hình thành (xác định được bằng phương pháp thiền, cảm xạ, nhân điện). Ở đây, ta
loại trừ các loại Đá có chất phóng xạ.
5. Trong quá trình nghiên cứu sưu tầm cho thấy:
a. Tục thờ Đá có
căn nguyên của nó và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
b. Đá có tính
trường tồn và tính mầu nhiệm.
c. Đá có năng lượng
đặc thù và sự quyền uy.
d. Đá hòa đồng với
các tôn giáo: Phật giáo, Công giáo, Đạo giáo và các tín ngưỡng khác mà không
làm mất đi bản sắc riêng của mình, ngược lại thông qua Đá các tín ngưỡng khác
được suy tôn, trường tồn.
Để hiểu sâu sắc và phát huy tục thờ Đá
của người Việt, bảo tồn những báu vật của thiên nhiên và ứng dụng trong cuộc sống
sau một thời gian dài nghiên cứu khảo nghiệm qua thực tiễn thấy cần thiết phải
chính luận hóa về Đá nói chung và Kỳ Thạch nói riêng. Chúng tôi đã bước đầu xây
dựng Bộ môn Thạch đạo Việt.
Nội dung chính của Bộ môn Thạch Đạo Việt.
Những cơ sở
chính của Bộ môn:
1- Đá mang tính trường tồn.
2- Kì Thạch là thông điệp của thiên
nhiên (ở trời sinh hình, ở đất sinh tượng. Đá là tượng của đất).
Vì vậy Bộ môn Thạch Đạo Việt là: Bộ môn
đi tìm thông điệp của thiên nhiên – những quy luật của tạo hóa giúp con người
hiểu biết về thiên nhiên, về tạo hóa để phát triển một cách bền vững thông qua
sự giao hòa giữa con người với một tác phẩm Kì Thạch hoặc một cụm tác phẩm cho
một mục đích.
Thạch đạo Việt gồm:
5 lớp lang
1. Thạch Mỹ: Tìm
cái đẹp của Đá – tính nghệ thuật (đây là nghệ thuật thiên tạo)
2. Thạch Văn:
Tính giáo dục của Đá thông qua các chủ đề huyền thoại, tập tục.
3. Thạch Kiến: Cấu
trúc của Đá - tính khoa học
4. Thạch Pháp:
Quyền uy của Đá – tính tâm linh
5. Thạch Y: Năng
lượng của Đá ảnh hưởng tới sức khỏe con người – tính khoa học.
Tổng hòa 5 lớp
lang trên. Đá được ứng dụng như: vị thuốc
nam, thuốc Bắc trong không gian sinh tồn góp phần xây dựng phúc trạch cho một
cá nhân gia đình và xã hội.
Cụ thể:
1. Năng lượng của
Đá cho chất và màu quy định ứng với ngũ hành về màu, về hình- Đá có năng lượng
âm, năng lực dương (kiến thức cảm xạ- nhân điện).
2. Hướng và vị
trí đặt Đá: Để phát huy hết tác dụng của Đá trong không gian sinh tồn tuân theo
bát trạch (bốn phương – tám hướng – hai mươi tư sơn) sao cho phù hợp – thuận
thì kích hoạt gia tăng linh khí tốt, nghịch thì hạn chế ngăn chặn khí xấu, khí
không hợp.
3. Không gia
sinh tồn được hiểu là nhà ở, khu vực làm việc hoặc một vùng chung cho cộng đồng
dân cư.
Không gian sinh
tồn gồm 5 cửa:
a. Cửa linh: Nơi
thể hiện tôn giáo tín ngưỡng, tập tục truyền thống.
b. Cửa nạp: Bếp,
nhà ăn, nơi cung cấp thực phẩm.
c. Cửa dưỡng:
Phòng ngủ nơi nghỉ ngơi an dưỡng, vui chơi.
d. Cửa tiếp: Nơi
làm việc, phòng khách (nơi chứng minh là ai với cộng đồng xã hội).
e. Cửa xả: Nhà vệ
sinh, môi trường cảnh quan.
Năm cửa này thuận
theo âm dương ngũ hành thì gọi là ngũ linh, nghịch gọi là ngũ quỷ. Với từng bản
mệnh của chủ thể (con người hay cộng đồng).
Những
cơ sở ứng dụng của Thạch Đạo Việt.
Ta đều biết vô cực sinh Thái cực, Thái
cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh bát quái (thành
hai mươi tư sơn), Bát quái sinh vô lượng (Kinh dịch).
Trong vận hành của thời gian, giờ
sinh, ngày sinh, tháng sinh, năm sinh. Mệnh của con người được gắn với nước,
can- mười hai chi cùng với ngũ hành.
Tổng hợp những điều trên được gọi là mệnh
của một con người được lập trình theo thời gian cho một cá thể, gia đình, xã hội,
rộng hơn là một tạo hóa với một chủ thể.
Chủ thể: Con người, gia đình, xã hội đều
có bốn đại tứ trụ đó là:
Phúc: là nền tảng cuộc sống.
Mệnh: là giờ, ngày tháng năm sinh-
không ai giống ai (đây chính là mã hóa của tạo hóa).
Phong: là môi trường sống và làm việc
(kể cả khi mất đi).
Trí: Kiến thức và trí tuệ (tu tập đức
năng thắng số).
Kì Thạch lúc này đóng vai trò:
a. Là tác phẩm hoặc một cụm tác phẩm
tôn vinh không gian sinh tồn (gia đình hoặc nơi công cộng).
b. Điều phối lại khí, tăng khí thuận,
giảm thiểu khí xấu giúp chủ nhân hoặc người tiệm cận cân bằng âm dương.
c. Là nơi giao tiếp của thể khí chất
và thể khí quang, giúp cân bằng âm dương tăng linh khí trong quá trình tiệm cận
hoặc tu tập.
d. Bảo tồn những báu vật của thiên
nhiên cho thế hệ mai sau, (một bộ sưu tập – viện bảo tàng của gia đình, dòng họ
như là vật gia bảo truyền từ đời nọ sang đời kia mang tính giáo dục cao).
Sau một thời gian dài sưu tầm, nghiên
cứu phát huy tục thờ Đá, giải thích bằng khoa học, ứng dụng kinh dịch, chu dịch
và truyền thống thờ Đá và thưởng lãm Đá của ông cha, tham khảo và học tập các
phương pháp ứng xử với Đá của các nước, chúng tôi đã hệ thống mang tính chính
luận cho cách ứng xử - sử dụng Kì Thạch trong cuộc sống, như những viên sỏi,
hòn đá làm móng cho Bộ môn Thạch Đạo Việt và đã đạt được những kết quả khả
quan. Mong muốn ngày càng hoàn thiện hơn cho Bộ môn này.
Lời kết:
Với trách nhiệm lớn lao bảo tồn các vật
thể thiên nhiên, cụ thể là báu vật Kì Thạch cho thế hệ mai sau, phát huy tục thờ
Đá của ông cha ta để lại, hoàn thiện chính luận về tục thờ Đá, chơi Đá, ứng dụng
Đá trong phong thủy hy vọng phát triển văn hóa Đá Việt góp một phần vào việc
xây dựng nền văn hóa Việt Nam, đậm đà bản sắc dân tộc. Sau một thời gian dài,
đơn vị nghiên cứu, sưu tầm Kì Thạch Việt thuộc Trung ương Hội di sản văn hóa Việt
nam đã có vài nghìn tác phẩm được trưng bày tại Hoàng Thành Thăng Long (di sản
văn hóa thế giới) được gần chục năm này phục vụ đồng bào trong nước và khách quốc
tế nhất là các ngày lễ lớn của dân tộc. Đồng thời cùng thực hiện các dự án mang
tầm Quốc gia như Cột Đá Thề tại Đền Thượng khu di tích đền Hùng, Phú Thọ và
đang xây dựng các dự án Đàn Lạc hồng, Đàn tri ân, Thạch viện và các dự án khác.
Với một tâm huyết góp phần xây dựng
văn hóa Đá Việt, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên cho các thế hệ mai sau, chúng
tôi rất mong các cơ quan quản lý, các tổ chức, cá nhân quan tâm đến Đá Việt.
Những
lời tri ân:
Sơn
vô thạch bất kì
Thủy
vô Thạch bất thanh
Điền
vô thạch bất tú
Gia vô thạch bất phú
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét