Thứ Ba, 23 tháng 10, 2012

Đất khoa bảng Dương Kinh, Kiến Thụy

ĐẤT KHOA BẢNG DƯƠNG KINH - KIẾN THUỴ,
VỚI NHỮNG ÔNG NGHÈ ĐỜI NỐI ĐỜI VÌ NƯỚC, VÌ DÂN
                                                                                                                        Trần Phương
                                                                                    (Tổng thư ký Hội KHLS Hải Phòng)
     Huyện Kiến Thuỵ là mảnh đất có truyền thống về văn hoá, học vấn và trí thức. Hiếu học là đức tính quý báu, truyền thống tốt đẹp của người Kiến Thuỵ xưa nay. Trải qua các thời đại cho tới ngày nay lúc nào Kiến Thuỵ cũng có người đỗ đạt cao, những học giả nổi tiếng. Chỉ tính riêng trong thời phong kiến, huyện Kiến Thuỵ có tới 14 người đỗ đại khoa; trong đó có Bùi Đình Dự, người làng Nãi Sơn đỗ Đình nguyên - Hoàng giáp (đỗ đầu khoa thi năm Đinh Sửu (1757), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 18, đời vua Lê Hiển Tông - khoa này không lấy Trạng nguyên). Đặc biệt, những trí sĩ, văn thân được đào tạo từ lò học "Lê Xá" và "Nãi Sơn" nổi tiếng không chỉ là niềm tự hào của nhân dân Kiến Thuỵ - Hải Phòng mà còn khiến kẻ sĩ Bắc Hà phải vị nể, khâm phục. Theo đó, 14 vị đỗ đại khoa (học vị tiến sĩ) thời phong kiến của huyện Kiến Thuỵ được phân bổ theo địa bàn làng xã như sau: Lê Xá 7 vị, Nãi Sơn 2 vị (tức xã Tú Sơn ngày nay có tới 9 vị đỗ đại khoa); Hương La 2 vị; Cổ Trai 1 vị; Xuân Dương 1 vị; Du Lễ 1 vị. Riêng khoa thi năm Mậu Tuất (1538), niên hiệu Đại Chính thứ 9, đời vua Mạc Thái Tông, cả huyện Kiến Thuỵ có tới 4 người đỗ tiến sĩ như: Hoàng Thuyên (Lê Xá), Bùi Hữu Tảo (Cổ Trai), Nguyễn Huệ Trạch (Lê Xá) và Bùi Tố Trứ (Hương La).
    Dân tộc ta có truyền thống coi trọng hiền tài, coi "Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà càng lên cao; nguyên khí suy thì nước yếu mà càng xuống thấp. Bởi vậy các bậc vua tài giỏi đời xưa, chẳng có đời nào lại không chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo hiền tài bồi đắp thêm nguyên khí" (Bia Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 - 1442 ở Văn Miếu Quốc Tử Giám - Hà Nội). Xuất phát từ quan điểm, nhận thức trên, các triều đại phong kiến nước ta và nhân dân các làng xã đều quý trọng hiền tài: khi đỗ khoa thi hương, danh sách người đỗ đạt được yết bảng tại trường thi; khi đỗ tiến sĩ được ghi tên lên bảng vàng treo ở nơi trang trọng nhất tại Kinh đô Thăng Long. Bắt đầu từ năm Bính Dần (1446), vua Lê Thánh Tông định lệ xướng danh người đỗ hương cống, truyền lô tên người đỗ thi Đình và lệ cho tiến sĩ tân khoa được "vinh quy bái tổ". Đến năm Giáp Thìn (1484) lại đặt lệ khắc tên tiến sĩ vào bia đá dựng ở Văn miếu Quốc Tử giám ở kinh đô. Kế thừa và phát huy truyền thống quý báu của dân tộc, người Kiến Thuỵ xưa đã đóng góp tiền của, công sức, trí tuệ xây dựng Văn miếu Xuân La để tôn thờ các khoa bảng tiên hiền của quê hương, đất nước. Văn miếu Xuân La đã được trùng tu, tôn tạo khang trang vào năm Minh Mạng thứ 2 (1829), nổi tiếng khắp xứ Đông xưa. Bia "Hà Nam tam tổng" mô tả Văn miếu Xuân La: "Huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, lộ Hải Dương có Văn miếu tại núi Đối có 5 toà đá quý trông như thánh tiên (Khổng Tử) cùng bốn vị khác và không biết từ thời nào xây dựng Văn miếu, nhân đó đắp tượng phụng tế...Đẹp thay Văn miếu của huyện, đưa các vị đại khoa và các vị hương khoa nhập Văn miếu mà phụng tế theo thứ tự để khuyên con cháu mở mang văn học". Văn miếu Xuân La thờ 14 vị là con em của vùng đất Kiến Thuỵ  đỗ đại khoa, lập nhiều công tích cho quê hương, đất nước. Theo hiểu biết của chúng ta hiện nay thì vị tiến sĩ khai khoa của huyện Kiến Thuỵ là Nguyễn Nhân Khiêm (1441 - ?), người làng Lê Xá (nay thuộc xã Tú Sơn), đỗ Đệ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa thi năm Kỷ Sửu (1469). Và người đỗ tiến sĩ Nho học cuối cùng của huyện Kiến Thuỵ là Nguyễn Quang Biểu (1744), người làng Nãi Sơn (nay thuộc xã Tú Sơn), đỗ Đệ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa thi năm Canh Thìn (1772).
  Xưa kia, những người dân quê lam lũ, quanh năm "chân lấm, tay bùn", phần lớn thất học, lo kiếm đủ miếng cơm ăn, manh áo mặc đã khó, nói gì đến chuyện học hành. Mặc dù rất hiếm cơ may lọt vào "Cửa Khổng - Sân Trình", nhưng bù lại ở các làng quê Kiến Thuỵ thời nào cũng có người sáng dạ, trau dồi sự học để "thanh danh, lập ngôn, lập công, lập đức", đem tài năng thi thố với đời, chứ không chỉ mong vinh thân, phì gia:
                              "Trai mỹ miều bút nghiên đèn sách
                             Gái thanh tân chợ búa cửi canh
                              Trai thời nhất bảng đề danh
                             Gái thời dệt vải vừa nhanh vừa tài"
    Đi khắp Kiến Thuỵ ở đâu chúng ta cũng dễ dàng gặp những dòng họ, những làng khoa bảng, làng văn hoá, nhưng nổi tiếng hơn cả là làng "tiến sĩ" Lê Xá. Làng Lê Xá, trước năm 1813, là xã Lê Xá thuộc tổng Nãi Sơn, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương; trước năm 1945, là xã Lê Xá, tổng Nãi Sơn, phủ Kiến Thuỵ, tỉnh Kiến An; nay là thôn Lê Xá, xã Tú Sơn, huyện Kiến Thuỵ, thành phố Hải Phòng. Trước kia, thậm chí làng xã chỉ cần có một người đỗ đạt, một nhà thơ, nhà văn, người chép sử, triết gia...có tiếng là đã được coi như có truyền thống văn chương như: làng Trung Am (Vĩnh Bảo) với Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm; làng Thanh Lãng (Thuỷ Nguyên) với Trạng nguyên Lê Ích Mộc; làng Hạnh Thị (An Lão) với Hoàng giáp Lê Khắc Cần; làng An Tử Hạ (Tiên Lãng) với ông Nghè Nhữ Văn Lan (ông ngoại Trạng Trình); làng Nãi Sơn với Hoàng giáp Bùi Đình Dự; làng Hà Dương (Vĩnh Bảo) với tiến sĩ Dương Đức Nhan (bố vợ Trạng Trình); làng Khinh Dao (An Dương) với quan Nghè - Thượng thư Bộ binh Phạm Đình Trọng; làng Dương Quan (Thuỷ Nguyên) với tiến sĩ Tô Kim Bảng; làng Hội Am (Vĩnh Bảo) với Bảng nhãn Đào Công Chính; làng Cổ Am với nhà văn Khái Hưng, Trần Tiêu...đã làm rạng danh cho quê hương, đất nước. Vậy chỉ riêng làng Lê Xá, (Tú Sơn - Kiến Thuỵ) đã có tới 7 người đỗ đại khoa, có thể sánh với đất học Đông Ngàn - Xứ Kinh Bắc, làng Mộ Trạch - Xứ Đông, hay "Đông Cổ Am, Nam Hành Thiện"...Đó là những vị khoa bảng nổi tiếng một thời như: Nguyễn Nhân Khiêm (1441 - ?): đỗ Đệ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm 29 tuổi, khoa thị năm Kỷ Sửu (1469), niên hiệu Quang Thuận thứ 10, đời Lê Thánh Tông, làm quan tới chức Đô cấp sự trung Bộ Công; Bùi Phổ (1463 - ?): đỗ Đệ Nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) năm 1487, đời Lê Thánh Tông. Ông làm quan tới chức Hiệu Lý Viện Hàn lâm, là một trong 28 văn sĩ tham gia Hội Tao Đàn do vua Lê Thánh Tông sáng lập. Hiện còn 5 bài thơ của ông được Lê Quý Đôn đưa vào tuyển tập "Toàn Việt thi lục"; Trần Bá Lương (?  ?): có sách chép là họ Nguyễn - đỗ Đệ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa thi năm Kỷ Sửu (1499), niên hiệu Cảnh Thống thứ 2, đời vua Lê Hiến Tông, làm quan đến chức Đông các Hiệu thư. Ông đã từng được cử đi làm Phó chánh sứ sang Trung Quốc. Bài biểu do ông soạn dâng lên vua Minh được Phan Huy Chú tuyển vào bộ "Lịch triều hiến chương loại chí"- Phần "Bang giao chí"; Phạm Gia Mô (1462 - ?): đỗ Đệ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa thi năm Ất Sửu (1505), niên hiệu Đoan Khánh thứ nhất, đời vua Lê Uy Mục. Ông làm quan hai triều Lê - Mạc, đến chức Thượng thư Bộ Lễ, tước Hoành Lễ hầu (triều Lê). Ông vốn thuộc dòng dõi Phạm Mãi nổi tiếng thời Trần. Chi họ này sau di cư về làng Quỳnh Khê, huyện Kim Thành, Hải Dương; rồi di cư về làng Lê Xá, huyện Nghi Dương. Ông thông gia với Mạc Đăng Dung và làm quan nhà Mạc, được ban tước cực phẩm: Khai phủ Bình chương Quân Quốc trọng sự, Thái sư, Hải quốc công. Khi ông mất dân làng Đồng Mô thờ làm thành hoàng. Khi nhà Lê Trung hưng, đã trả thù ông khốc liệt. Con cháu bi giết hại, truy sát, phủ đệ Lê Xá bị triệt hạ. Tên ông ở bia Tiến sĩ Văn miếu Quốc tử giám bị đục bỏ; Lê Thời Bật (? - ?): đỗ Đệ Nhị giáp đồng tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp), khoa thi năm Giáp Tuất (1514), niên hiệu Hồng Thuận thứ 6, đời vua Lê Tương Dực. Ông làm quan tới chức Thượng thư, tước Văn Uyên hầu dưới triều Mạc; Hoàng Thuyên (1500 - ?): đỗ Đệ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa thi năm Mậu Tuất (1538), niên hiệu Đại Chính thứ 9, đời vua Mạc Thái Tông năm 39 tuổi, làm quan tới chức Tham Chính và Hữu Thị lang hai Bộ; Nguyễn Huệ Trạch (? - ?): đỗ Đệ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa thi năm Mậu Tuất (1538), niên hiệu Đại Chính thứ 9, đời vua Mạc Thái Tông, làm quan tới chức Cấp sự trung.
   Như vậy, riêng khoa thi năm Mậu Tuất, niên hiệu Đại Chính thứ 9, đời vua Mạc Thái Tông (1538), làng Lê Xá vinh dự được đón hai ông Nghè tân khoa là Hoàng Thuyên và Nguyễn Huệ Trạch. Qua thống kê, đất học Tú Sơn ngày nay (gồm 2 làng xã cũ là Lê Xá và Nãi Sơn) có tới 9 tiến sĩ: ngoài 7 vị khoa bảng của làng Lê Xá, còn có 2 vị của làng Nãi Sơn đỗ đại khoa là: Bùi Đình Dự (1726 - ?), nổi tiếng hay chữ, thi hương đỗ Giải Nguyên, thi Đình đỗ Đình nguyên, Hoàng giáp, khoa thi năm Đinh Sửu (1757), niên hiệu Cảnh Hưng 18, đời vua Lê Hiển Tông, làm quan tới chức Hữu thị lang Bộ Hình và Nguyễn Quang Biểu (1744 - ?): đỗ Đệ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa thi năm Canh Thìn (1772), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 33, đời vua Lê Hiển Tông, làm quan tới chức Thị chế Viện Hàn lâm (Tương truyền, nhà nghèo nhưng ông sáng dạ và đặc biệt ham học. Mỗi khi đi chăn trâu, cắt cỏ cho chủ xong, ông đến trường học nghe lỏm hoặc học theo con nhà chủ. Ngày về Thăng Long thi Hội, số tiền chu cấp của họ hàng, bạn bè không đủ chi dùng nên bị chủ nhà trọ gây nhiều rắc rối. Một cô hàng rượu thấy thế trả giúp ông tiền nợ. Sau khi đỗ, ông tòm cô hàng rượu tốt bụng cưới làm vợ. Khi trí sĩ, ông về quê vợ ở vùng Sơn Nam Hạ - tỉnh Thái Bình hiện nay). Trong hàng ngũ các nhà khoa bảng ở huyện Kiến Thuỵ thì Hoàng giáp Bùi Đình Dự (người làng Nãi Sơn) nổi lên như một ngôi sao sáng, xứng đáng được xếp vào hàng "Danh nhân đất Việt".
     Bùi Đình Dự sinh năm 1726, người làng Nãi Sơn (tên nôm là làng Nại), huyện Nghi Dương, nay là thôn Nãi Sơn, xã Tú Sơn, huyện Kiến Thuỵ. Bùi Đình Dự (sau đổi là Bùi Đình Đang) nổi tiếng là thần đồng, hay chữ, thi hương đỗ Giải Nguyên; vào thi đình - khoa thi năm Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng thứ 18 (1757), đời vua Lê Hiển Tông, đỗ Đình Nguyên Hoàng giáp, làm nức lòng sĩ tử và dân chúng Xứ Đông (gồm TP Hải Phòng và tỉnh Hải Dương ngày nay). Bùi Đình Dự là một tác gia được truyền tụng nhưng hiện chỉ còn một số bài văn tế thành hoàng do ông soạn giúp dân các làng Đoan Xá... mà thôi.    
   Lúc bấy giờ, sĩ tử và học giả khắp trong nước đều đánh giá cao tài năng, đức độ Bùi Đình Dự, coi ông như là một trong những người tiêu biểu nhất cho nho phong sĩ khí Bắc Hà và khí phách sĩ tử Xứ Đông. Tuy nhiên, việc Bùi Đình Dự bằng sức học và nhờ tài năng đã giật giải Đình nguyên Hoàng giáp (tức người đỗ đầu) tại một kỳ thi Đình thực sự là sự kiện gây tiếng vang lớn. Bia văn miếu Thăng Long (tức Văn miếu Quốc tử Giám) ghi chú Bùi Đình Dự vốn là sinh đồ văn chức. Như mọi người đều biết, quê hương Nãi Sơn, Nghi Dương của Bùi Đình Dự bị các triều đại phong kiến Việt Nam coi là dân "Thất quận" (gồm 7 huyện: Thuỷ Đường, Nghi Dương, An Dương, An Lão, Giáp Sơn, Kim Thành, Đông Triều) thuộc phủ Kinh Môn, Xứ Đông, bản chất hung hãn, luôn là trung tâm các phong trào chống đối triều đình. Chính vì thành kiến nặng nề này mà suốt từ thời Lê - Trịnh sang tận thời nhà Nguyễn, sĩ tử vùng này bị chèn ép, số người học hành bị giảm sút. Qua 250 năm chỉ 5 tiến sĩ là Vũ Kiều (Ngọ Dương - An Dương), Phạm Đình Trọng (Khinh Giao - An Dương), Nguyễn Quang Biểu (có tài liệu ghi là Nguyễn Trọng Biểu và Bùi Đình Dự đều là người làng Nãi Sơn - huyện Nghi Dương và Lê Khắc Cần, người làng Hạnh Thị, huyện An Lão.
    Các bậc vua chúa sáng suốt không ai không lấy việc tuyển chọn nhân tài, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần kíp. Bởi thế, các triều đại phong kiến nước ta đều quý trọng hiền tài: khi đỗ thi Hương đã được yết bảng tại trường thi; khi đỗ tiến sĩ được ghi tên bảng vàng treo ở nơi trang trọng nhất ở kinh đô. Từ năm Bính Dần (1446), vua Lê Thánh Tông định lệ xướng danh người đỗ hương cống, truyền lô tiên người đỗ thi đình và lệ cho tiến sĩ được vinh quy bái tổ. Năm Giáp Thìn (1484), lại đặt lệ khắc tên tiến sĩ vào bia đá dựng ở Văn miếu kinh đô. Các quan nghè tân khoa được dự tiệc yến, ban phẩm phục, thăm vườn thượng uyển...để bàn dân thiên hạ chiêm ngưỡng. Lê Quý Đôn, trong sách "Kiến văn tiểu lục", ghi: "...Triều Lê Trung Hưng đãi ngộ người đỗ tiến sĩ rất hậu, bổ dụng rất cao, ban cho mũ áo cân đai triều phục, cho vinh quy về quê với đủ thứ cờ quạt, nghi trượng, phường trống nhạc đón rước; quan có trách nhiệm bắt dân làng làm nhà cho tiến sĩ. Không chỉ người đỗ Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) hay trúng cách kỳ thi chế khoa được bổ vào Viện Hàn Lâm mà những người đỗ đồng tiến sĩ cũng được bổ chức khoa đạo không phải làm quan ở phủ, huyện. Trong mỗi khoa thi, người đỗ trẻ tuổi nhất được bổ chức Hiệu thảo. Người được bổ làm quan ở trấn thì sung chức ở Ty Thừa chính hay Ty Hiến sát, đều được giao chức vụ chính thức giữ ấn tín, chứ không phải giữ chức phụ tá. Năm ân điển này so với việc đặt khoa mục ở Trung Quốc từ xưa đến nay chưa từng có".
   Lại nói, khoa thi năm Đinh Sửu, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 18, đời vua Lê Hiển Tông (1757) lấy đỗ 6 tiến sĩ (Nguyễn Khiêm Hanh thi Hội trúng cách, khi dự thi Đình dấu sách mang vào thi nên bị truất), Bùi Đình Dự đỗ Đình nguyên Hoàng giáp. Tuy nhiên, trong lễ yến tiệc, ban phẩm phục đã xảy ra sự cố là vợ cả, vợ lẽ một số tân khoa tiến sĩ là Bùi Đình Dự, Phạm Tiến, Phạm Huy Cơ, cãi cọ, tranh nhau đường đi hôm vinh quy, vì thế các vị tân khoa này đều bị triều đình cho về quê để học hỏi, trau dồi thêm đạo lý "tề gia", mùa đông năm sau mới bổ dụng.
   Song với tài năng, đức độ của tiến sĩ đỗ đầu khoa thi, Bùi Đình Dự được triều đình Lê - Trịnh đặc ân lần lượt bổ làm quan suốt trong triều, ngoài trấn. Trong triều, Bùi Đình Dự làm quan tới chức Hiệu thư Viện Hàn Lâm, Thừa chính sứ...; ngoài trấn, trị nhậm khắp 6 tỉnh biên giới thuộc trấn Đông, Đoài, Bắc và cả trấn ngoại Nghệ An, bất kỳ việc gì được giao, ông đều hoàn thành xuất sắc. Nơi ông trị nhậm, chỗ ông đóng quân, dân chúng đều mến mộ, kính tin, vì ông hành xử theo đúng nguyên tắc Nho gia: "Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Về tề gia, uy đức của Bùi Đình Dự lớn đến mức dân chúng trong vùng tự nguyện kiêng tránh tên huý (vốn chỉ dành cho vua chúa và hoàng thân quốc thích), gọi ông là quan Hoàng Nại (Nại là tên nôm làng Nãi Sơn). Về trị quốc, Bùi Đình Dự đã đem tài học của mình hết lòng giúp vương triều Lê - Trịnh đề cao tinh thần tự cường dân tộc, không để người phương Bắc đè nén. Là người được cả vua Lê Hiển Tông lẫn chúa Trịnh Doanh (sau là Trịnh Sâm) tin dùng, Bùi Đình Dự đã đem hết tài năng đấu tranh đòi nhà Thanh trả lại những đất đai đã chiếm đoạt ở biên giới phía Bắc, cũng như giúp triều đình phân định biên giới ổn thoả với Ai Lao. Sử cũ cho biết suốt hơn 200 năm triều Lê - Trịnh, kẻ địch cường mãnh ở biên giới phía Bắc luôn có âm mưu xâm lấn đất đai, uy hiếp nền độc lập, tự chủ của nước ta. Triều đình Lê - Trịnh rất coi trọng bảo vệ biên cương, cử những quan trọng thần có tài năng trấn giữ nơi biên ải. Do lập nhiều công lớn, trước khi về trí sĩ, Bùi Đình Dự được tặng chức Hữu Thị Lang Bộ Hình, tước Dương Lĩnh hầu.
     Ông Bùi Hữu Nghĩa - cựu danh thủ đội bóng đá Cảng Hải Phòng căn cứ vào "Bùi Hoa tộc phả" (do tri huyện Nghi Dương Bùi Bá Cẩn, thuộc dòng dõi thống tôn của tiến sĩ Bùi Đình Dự soạn) cho biết khi tình hình biên cương đã được ổn định, Bùi Đình Dự lại được triều đình cử về các trấn Sơn Nam Hạ, Sơn Nam Thượng, Hải Dương...thu thuế khoá. Vốn sẵn có lòng thương yêu dân, nhiều năm liền ông không những dâng sớ xin triều đình miễn thuế cho nông dân nghèo mà còn lấy thóc gạo của triều đình phát chẩn cứu đói. Năm 1788, trong một đợt đi phát chẩn cứu tế ở trấn Sơn Nam Hạ (tỉnh Thái Bình ngày nay), ông mắc bạo bệnh, qua đời, thọ 62 tuổi. Phần mộ của ông được an táng tại chân núi Voi, thuộc địa bàn làng Khúc Giản (nay thuộc xã An Tiến, huyện An Lão), nơi có ngành trưởng họ Bùi trông nom, chăm sóc. Và người trực tiếp đảm nhiệm việc này là cai tổng Bùi Công Quyền. Sau này, thể theo nguyện vọng của con cháu dòng họ Bùi ở Nãi Sơn, sinh phần của quan nghè Bùi Đình Dự được chuyển về an táng tại quê nhà Nãi Sơn. Hiện nay khu lăng mộ tiến sĩ Bùi Đình Dự và bia đá vẫn đang được con cháu họ Bùi và nhân dân làng Nãi Sơn, xã Tú Sơn giữ gìn, chăm lo hương khói chu đáo...
   Qua "Bùi Hoa tộc phả", ngờ rằng tiến sĩ Bùi Đình Dự thuộc dòng dõi của quan nghè Bùi Mộng Hoa, thời nhà Trần. Bùi Mộng Hoa tên huý là Thành, Mộng Hoa là tên chữ, sinh ngày 15-3-1353; không rõ ngày mất. Ông người trang Hoa Chử, huyện An Lão, nay là thôn Hoa Chử, xã Trường Thành, huyện An Lão. Tổ tiên xa đời vốn là người Ái Châu (Thanh Hoá), cuối đời Lý, nhân loạn di cư đến trang Hoa Chử lấy con gái họ Nguyễn ở trang này. Đến đời cháu trưởng là Bùi Đĩnh đỗ đạt làm quan đến tước Quan nội hầu. Bùi Đĩnh muộn con, tuổi cao mới sinh được Bùi Thành. Bùi Thành từ nhỏ có tiếng nhân từ hiếu đễ lại học giỏi. Năm 26 tuổi đỗ cao (tiến sĩ), làm quan dưới triều Nghệ Tông, Dụê Tông, Thuận Tông đời Trần. Khi làm quan, Bùi Mộng Hoa thường cương nghị thẳng thắn, gặp việc sai trái ông bắt bẻ, tranh biện, không e sợ kẻ quyền quý. Khi quân Chiêm xâm phạm bờ cõi, ông tham gia đánh địch, thắng lớn ở Cổ Vô, do đó được thăng Thiêm sự Khu mật viện, được ban thực ấp gồm các trang Hoa Chử, Phương Chử, Khúc Giản...Sau thấy Hồ Quý Ly lộ rõ ý muốn cướp ngôi nhà Trần, Bùi Mộng Hoa nhân dịp nhà vua cầu người nói thẳng đã dâng sớ mượn lời đồng dao tố cáo Quý Ly thâm hiểm định nhòm ngôi báu. Thượng hoàng Nghệ Tông đem sớ đó cho Quý Ly xem, Quý Lý rất bực muốn bức hại ông, nhưng lại sợ uy tín của Bùi Mộng Hoa. Năm Ất hợi (1395) thấy Quý Ly tàn sát tôn thất nhà Trần, ông bàn với Trung uý Nguyễn Chính Đồng trả quan từ chức về quê. Từ đây, Bùi Mộng Hoa mở trường dạy học, học trò theo khá đông, nhiều người thành đạt. Khi Hồ Quý Ly giết hại vua lên ngôi, Bùi Mộng Hoa vào núi Voi ở ẩn, Quý Ly cho vời nhưng ông không ra, hàng ngày luyện đan, hái thuốc, tu đạo tiên. Vào năm Canh Thìn (1400) Quý Ly sai người đến bức ông ra làm quan. Ông rời am đi đâu không rõ. Phải chăng Bùi Mộng Hoa bí mật chuyển cư về Nãi Sơn ?
   Bên cạnh 9 vị khoa bảng (tiến sĩ) là người làng Lê Xá (7 vị), Nãi Sơn (2 vị) thuộc xã Tú Sơn ngày nay, thì trong danh sách các vị "tiên hiền" được khắc trên văn bia Văn miếu Xuân La (văn miếu hàng huyện) còn có các vị: Hoàng Ngạn Chương (? - ?): người làng Xuân Dương (nay là thôn Xuân Dương, xã Ngũ Phúc), đỗ Đệ Nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa thi năm 1487, đời vua Lê Thánh Tông, cùng khoa thi với Bùi Phổ, người làng Lê Xá. Bùi Đức Thiệu (1461 - ?): người làng Du Lễ (nay là xã Du Lễ), đỗ Đệ Nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) lúc 30 tuổi, khoa thi năm Canh Tuất (1490), niên hiệu Hồng Đức thứ 21, đời vua Lê Thánh Tông, làm quan đến chức Tự Khanh (sách Đăng khoa lục chép ông quê ở Nghi Dương nhưng Văn miếu phủ Kiến Thuỵ (Văn miếu Xuân La) ghi ông người Du Lễ). Bùi Hữu Tảo (? - ?): người làng Cổ Trai (nay là thôn Cổ Trai, xã Ngũ Đoan), đỗ Đệ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa thi năm Mậu Tuất (1538), niên hiệu Đại Chính thứ 9, đời vua Mạc Thái Tông năm 39 tuổi, làm quan tới chức Tham Chính và Hữu thị lang hai Bộ. Bùi Tố Trứ (? - ?): người làng Hương La (nay là thôn Xuân La, xã Thanh Sơn), trú quán tại làng Quỳnh Khê, huyện Kim Thành, Hải Dương; ông đỗ Đệ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Mậu Tuất (1538), niên hiệu Đại Chính thú 9, đời Mạc Thái Tông, làm quan tới chức Thừa Chính sứ. Nguyễn Thái Cẩn (? - ?): người làng Hương La (nay là thôn Xuân La, xã Thanh Sơn), đỗ Đệ Nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa thi năm Canh Tuất (1550), niên hiệu Cảnh Lịch thức 3, đời Mạc Tuyên Tông, làm quan tới chức Thừa Chánh sứ...
   Truyền thống khoa bảng, hiếu học của người Kiến Thuỵ đang tiếp tục được nhân lên mạnh mẽ trong thời đại Hồ Chí Minh. Phát huy truyền thống năng động, sáng tạo và nhanh nhạy tiếp thu cái mới của quê hương, trong số hàng nghìn con em người Kiến Thuỵ đã nỗ lực học tập, nghiên cứu khoa học đã có hàng trăm người dành học hàm, học vị cao như Giáo sư, Phó giáo sư, tiến sĩ..., mà tiêu biểu là Tiến sĩ, Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới Phạm Văn Trung.
     Tiến sĩ Phạm Văn Trung Anh hùng lao động, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng nghề kinh tế - kỹ thuật Bắc Bộ, Tổng giám đốc tổng công ty Bình An là một trong những người giàu có nhất về giải thưởng khoa học, cũng như các danh hiệu thi đua trong giới trí thức và doanh nhân thành phố Cảng Hải Phòng. Đó là: Bằng độc quyền sáng chế; Bằng độc quyền giải pháp hữu ích; Giải thưởng khoa học Nguyễn Bỉnh Khiêm; Giải thưởng sáng tạo toàn quốc; Giải thưởng sáng tạo tạo khoa học công nghệ Việt Nam; Nhiều  bằng Lao động sáng tạo của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam; nhiều phần thưởng cao quý khác của nhà nước như Huân chương lao động , chiến sĩ thi đua yêu nước toàn quốc, Bằng khen của Thủ tướng chính phủ và các các Bộ ngành trung ương và các danh hiệu khác : một trong mười gương mặt tiêu biểu,  một trong mười giám đốc doanh nghiệp tiêu biểu, trí thức tiêu biểu của thành phố Hải phòng.
     Sau những năm tháng miệt mài nghiên cứu tiến sĩ Trung đã có những sáng chế và các công trình nghiên cứu khoa học như: nghiên cứu sản xuất vật liệu cách nhiệt chống cháy trên tàu thủy; nghiên cứu thiết kế chế tạo trạm thử nghiệm vật liệu không cháy và kết cấu chống cháy trên tàu thủy; Thiết kế chế tạo xuồng cứu sinh, xuồng cấp cứu bằng vật liệu FRP và thiết bị nâng hạ xuồng trên tàu thủy; Thiết kế chế tạo thân đèn biển bằng vật liệu FRP; Nghiên cứu thiết kế chế tạo thiết bị phân ly dầu nước; Nghiên cứu thiết kế thi công giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường hồ Tam Bạc thành phố Hải Phòng…v.v. Các kết quả nghiên cứu này đã được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn, thay thế các sản phẩm cùng loại của nước ngoài trên thị trường Việt Nam và mang lại giá trị kinh tế xã hội cao phục vụ thiết thực cho đời sống xã hội.
Không chỉ say mê nghiên cứu khoa học ứng dụng, ông còn trăn trở với sự phát triển của loại hình doanh nghiệp khoa học – công nghệ và đã xây dựng, chứng minh trên thực tiễn tính đúng đắn của mô hình doanh nghiệp này: Từ một HTX nhỏ bé với 60 m2 nhà xưởng với vài kỹ sư công nhân lao động, sau hơn 15 năm đã phát triển thành một Tổng công ty và trở thành nhà sản xuất vật liệu thiết bị tàu thủy hàng đầu Việt Nam.
Tiến sĩ Phạm Văn Trung còn là người nhiệt tình, tâm huyết với các hoạt động xã hội. Ông đã tặng gần 1000m đường bê tông nông thôn ủng hộ xã Ngũ Phúc (huyện Kiến Thụy) và xây tặng xã 1 cây cầu trị giá 650 triệu đồng; Tặng cán bộ và nhân dân phường Sở Dầu (quận Hồng Bàng) một trạm y tế trị giá 750 triệu đồng; Tặng cán bộ và nhân dân xã Đại Hà, huyện Kiến Thụy một trạm y tế khu vực với tổng giá trị đầu tư 1,4 tỷ đồng; Tặng phường Hạ Lý quận Hồng Bàng công trình  cải tạo trường mầm non trị giá 650 triệu đồng; Tặng thiết bị y tế cho 5 xã thuộc huyện Vĩnh Bảo Hải Phòng … và nhiều đóng góp xã hội khác.
Đã từng là một giảng viên, phó giám đốc trung tâm công nghệ của một trường Đại học, sau những thành công trong nghiên cứu khoa học và tạo dựng phát triển doanh nghiệp có thương hiệu trên thương trường, ông lại  tích cực tham gia đào tạo nguồn nhân lực, thế hệ tương lai cho thành phố và đất nước. Năm 2008, Tiến sĩ phạm Văn Trung nhận lời mời ra giúp liên minh VN tạo lập một trường nghề vùng đồng bằng Bắc bộ đặt tại HP. Bắt đầu là việc viết đề án thành lập trường trung cấp, sau 1 năm được nâng cấp lên trường cao đẳng nghề. Đến nay, Sau 4 năm  Ông đã tạo dựng thành công một trường cao đẳng nghề với cơ sở vật chất khang trang, thiết bị dạy nghề hiện đại, mọi hoạt động  của trường đã vào nền nếp bài bản và bước đầu xác lập được uy tín trong đào tạo dạy nghề. Ông cũng hoàn thành việc biên soạn bộ chương trình khung trình độ cao đẳng nghề, trung cấp nghề của nghề chế tạo vỏ tàu thuỷ đã được ban hành áp dụng cho toàn quốc và bộ 5 giáo trình phục vụ cho việc dạy và học của nhà trường. Tiến sĩ Trung cho rằng, trong điều kiện  chúng ta đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới thì nguồn nhân lực ngoài kỹ năng nghề, còn phải có khả năng thích nghi và sáng tạo.  Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó, Tiến sĩ Phạm Văn Trung đã thiết kế một phương pháp đó là: Tích hợp ba giai đoạn tiến hóa trong một quá trình đào tạo dạy nghề, Với mục đích cuối cùng là tạo ra những thế hệ học trò có khả năng đi xa hơn chính người thầy của mình. Sau khi thử nghiệm thành công, sẽ có thể  áp dụng phương pháp này cho hệ thống dạy nghề VN. Khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cạnh tranh với khu vực và quốc tế - Đây chính là tâm huyết của ông về đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước với vai trò của một nhà giáo, một Hiệu trưởng.
Lời tạm đóng, xin mượn câu đối đầy cảm xúc của Giáo sư, Anh hùng lao động, nhà văn hoá Vũ Khiêu về con người và vùng đất "Nhân kiệt làm nên địa linh" - Dương Kinh - Kiến Thuỵ:
       Đất nước canh tân, đánh thức tiềm năng thiên cổ dậy!
       Toàn cầu hội nhập, vươn cao trí tuệ vạn trùng xa!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét